Trùng Khánh-Cao Bằng
Tháng 5-2013
Mười chín tuổi, tạm biệt bản làng, quê hương Trùng Khánh, Cao Bằng tôi vào bộ đội và tham gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên và Lào. Quá trình ở quân ngũ kể cả thời gian tái ngũ tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, có một kỷ niệm mà tôi không thể nào quên được, đó là một lần thoát hiểm trở về.
Vào năm 1973 trên chiến trường Lào, đơn vị tôi lúc đó là R9B (Đường 9 địch hậu) thuộc đoàn 565. Địa bàn hoạt động ở Chi khu Đồng Hến thuộc huyện Kèng Coọc, tỉnh Savanakhet. Bấy giờ tôi ở đội vũ trang tuyên truyền gồm 5 người, do đồng chí Nguyễn Văn Khuya làm đội trưởng, tôi làm đội phó và 3 đội viên là: Nguyễn Văn Thuần , Nguyễn Văn Thiệp và Nguyễn Văn Thanh. Chúng tôi được trang bị mỗi người một khẩu AK, đội trưởng và đội phó còn được trang bị thêm súng ngắn K54. Nhiệm vụ của đội là tuyên truyền vũ trang, vừa giúp bạn về công tác tuyên truyền, vừa chiến đấu trấn áp tội phạm và xây dựng chính quyền nhân dân từ thôn bản, từng bước mở rộng vùng giải phóng của Lào.
Nhớ lại ngày 18 tháng 4 năm 1973, Đội chúng tôi đang giúp bạn làm nhiệm vụ ở cơ sở thì được lệnh về gấp Chi khu để nhận nhiệm vụ mới. Lúc này tình hình toàn chiến trường có những diến biến khẩn trương. Ở Trung và Nam Lào bộ đội chủ lực mở những chiến dịch đánh lớn, kể cả ở địa bàn vùng Kèng Coọc, Đồng Hến này. Chúng tôi được giao nhiệm vụ tổ chức hành quân tiếp cận gần thị trấn Kèng Coọc, bắt liên lạc với bộ đội chủ lực để sau khi thị trấn được giải phóng thì cùng bạn vào tiếp quản ngay.
Sáng sớm ngày 20 tháng 4 năm 1973 hành quân tới địa điểm đã định, chừng 1 giờ chiều hôm ấy, chúng tôi đến bản Hoòng Hạy. Vào đến đầu bản chúng tôi phát hiện trong bản có lính, họ có 11 người, trang phục và vũ khí giống như ta nhưng cũng chưa thể biết đó là lính ta hay địch!? Chỉ sau một hồi hỏi thăm nhau, họ nói họ là bộ đội chủ lực, quê ở Hà Tây… Nói đến đây thì mọi nghi ngờ vụt tan biến. Đồng chí Khuya – Đội trưởng nói với anh em là cùng nghỉ tại đây để chiều đi tiếp sang Kèng Coọc.
Mới nghỉ được khoảng 30 phút thì mấy ông “bạn” rủ ra suối bắt cá về cải thiện. Họ đi 5 người, ta có 3 đồng chí là Thuần, Thiệp và Thanh cùng đi. Thời gian trôi đi trong yên lặng, nhưng chỉ khoảng 20 phút sau bỗng nghe tiếng súng nổ ngoài suối thì đồng thời tôi và đồng chí Khuya cũng bị 6 tên bất ngờ ập tới dùng súng đánh túi bụi cho đến ngất xỉu lúc nào không biết. Khi tỉnh lại thì dã thấy 2 tay mình bị còng số 8 khóa quặt ra sau lưng. “ Thôi chết rồi” – Tôi nghĩ, hóa ra bọn này là địch chứ không phải là ta. Mình bị chúng nó lừa chia ra để tiêu diệt và bắt sống! Một thoáng lo lắng tột độ… Một lúc sau, tôi và đồng chí Khuya bị chúng đưa đến một bãi đất trống cách bản khoảng nửa cây số. Tại đây, bọn chúng canh giữ chúng tôi rất cẩn thận và gọi máy bay trực thăng đến đón vào lúc 5 giờ chiều. Chờ đến giờ hẹn không thấy máy bay đến, chúng tiếp tục liên lạc lại và được trả lời là máy bay đang bận hoạt động ở hướng khác và hẹn sẽ đón vào lúc 5 giờ sáng hôm sau…
Sự lo lắng trong tôi mỗi lúc càng thêm căng thẳng . Bụng đói, dạ khát lại vừa bị đánh đến ngất xỉu, giờ lại phải nằm đây qua một đêm chờ chúng mang đi ư? Tôi cứ nghĩ miên man về thời gian đó, nhưng liệu có cách nào để thoát được trong đêm nay không? Hy vọng nhưng bất lực vì bọn chúng canh giữ bọn tôi rất sát sao. Suốt đêm hôm ấy chỉ cần khẽ cựa quậy là chúng đã soi đèn kiểm tra và đánh liền. Cái đêm hôm ấy có lẽ là cái đêm ngắn nhất trong đời tôi, nó ngắn đến mức mà tôi chưa kịp nghĩ ra mưu kế gì để thoát khỏi bàn tay của kẻ địch.
Tưởng như hy vọng đã hết, nhưng đã quá 5 giờ sáng mà máy bay bọn chúng hẹn đến đón vẫn không thấy đâu; bọn chúng lại mở máy liên lạc và được hẹn tiếp là 6 giờ mới đến được. Vậy là còn 1 tiếng đồng hồ nữa. Lúc này tôi càng bối rối “Lại bất lực ư ?”. Khi thời gian kéo dài như vậy mà mình không làm được cái gì? Tôi định thần lại và nghĩ đến cái chết cận kề. Nhưng phải chết như thế nào khi mình là một Đảng viên Cộng sản, một cán bộ quân đội đã được giáo dục rèn luyện. Hơn nữa lại được sinh ra và lớn lên trong một gia đình và quê hương có truyền thống cách mạng. Nay rơi vào tay địch cũng phải chiến đấu đến cùng, dù sau đây có bị tra tấn, cầm tù cũng quyết không phản bội xin khai, quyết không đầu hàng địch. Bất giác tôi nghĩ đến không thoát được lúc này thì khi lên máy bay tôi sẽ nhảy xuống để chết. Thà chết chứ không chịu để chúng đưa đến nhà tù, trại giam.
Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc thì quyết tâm một mất một còn trong tôi trỗi đậy. Tôi nghĩ: phải chớp ngay thời cơ để tiêu diệt địch và mục tiêu lúc này của tôi là tiếp cận thằng “chiêu hồi” trước. Dùng đòn tâm lý tôi lân la bắt chuyện bằng cách dịu giọng lên tiếng:
– Từ hôm qua đến giờ tôi rất tin các anh, hơn nữa anh lại là người Hà Tây, cùng là đồng hương ngoài Bắc vào. Hai anh em chúng tôi nhờ sự giúp đỡ của anh, anh giúp chúng tôi nhé!
– Các anh yên trí! Thằng chiêu hồi nói ngay.
– Thế anh đi lính năm nào, lấy vợ chưa? Tôi hỏi tiếp.
– Tôi đang đi học bị bắt đi lính, huấn luyện một, hai tháng vào chiến trường Tây Nguyên luôn. Tôi thấy chiến trường ác liệt quá, ăn uống lại kham khổ chịu không nổi nên bỏ đơn vị chạy sang bên quân đội Việt Nam cộng hòa. Khi sang bên này được ăn uống sinh hoạt thoải mái, cần gì có nấy. Hàng tháng có lương từ 70-75 đồng kíp Lào. Trai gái chơi bời thoải mái…
Nghe nó thao thao bất tuyệt, tôi nhận định thằng này chủ quan rồi. Tôi liền giả vờ xin nó đi ngoài. Nó cho 2 thằng áp giải ra cách đó khoảng 10 mét. Mặc dù tôi muốn đi xa hơn để tiện chạy thoát luôn nhưng chúng ngăn lại không cho đi thêm nữa. Lúc này hai tay tôi vẫn bị khóa sau lưng nên không cởi được quần. Tôi ra hiệu và nói: “Các anh giúp tôi một cái !” – ý nói mở khóa còng. Khi hai thằng áp giải tôi còn chần chừ thì thằng chiêu hồi lấy chìa khóa mở còng chuyển ra phía trước bụng. Lúc ấy tôi đã muốn vùng chạy ngay nhưng thấy chưa chắc chắn nên… đành về lại chỗ cũ để tính kế khác. Tôi bảo thằng chiêu hồi:
– Anh ạ, hôm qua các anh đánh tôi bị gãy tay, bây giờ đau buốt quá. Các anh có thuốc cho tôi một tí!
– Anh yên trí, ở đây không có thuốc nhưng về tôi sẽ báo cáo và cho đi điều trị ngay – Nó trả lời.
– À mà túi ý tá của bọn tôi có thuốc, có cồn xoa bóp đấy, các anh lấy hộ giúp được không? Tôi bảo.
Ngay lập tức thằng chiêu hồi cầm cái túi y tá mở lấy lọ bông cồn (Loại bông vo viên đã được tẩm cồn sẵn) đem đến trước mặt tôi. Vì lúc này 2 tay tôi vẫn bị khóa không tự làm lấy được nên tôi nhờ nó làm giúp, nó không làm nhưng lại mở khóa cho tôi một bên tay. “Trời ơi hay quá!” Tôi thầm kêu lên. Tôi mở nắp lọ lấy cồn và giả vờ xoa xoa , bóp bóp. Tôi liếc mắt nhanh xung quanh. Người tôi lúc này bỗng nóng ran, cái quyết tâm tiêu diệt chúng đã bốc hỏa lên đầu và toàn thân… Cùng lúc đó có một thằng lính cầm bi-đông xuống suối lấy nước lên uống, nó ngồi đối diện cách tôi chừng 2 mét, khẩu súng đặt bên cạnh chĩa nòng về phía tôi. Nhanh trí tôi nói với nó: “Cho tôi uống với”. Vừa nói tôi vừa nhào tới đón lấy cái bi-đông trên tay nó. Nâng bi-đông lên giả vờ uống nhưng ngay lập tức tôi dùng hết sức ném thẳng cái bi-đông đầy nước vào đúng mặt nó. Thấy nó gục mặt xuống, tôi bật dậy cướp được khẩu súng. Vừa lùi về phía sau được một hai bước thì thằng chiêu hồi cũng lao tới định ôm lấy tôi. Đoàng! Tôi bóp cò, viên đạn bắn trúng ngực làm nó khựng lại đổ vật xuống giãy dụa. Tôi lia tiếp băng đạn để tiêu diệt những tên khác thì bỗng nhiên súng không nổ (?) Tôi ù té chạy thục mạng, vượt qua chỗ đất trống tới được bìa rừng thì mới nghe nhiều tiếng súng bắn theo, đạn bay vèo vèo qua đầu. Cùng lúc ấy chiếc máy bay trực thăng của bọn chúng cũng tới, nó lượn một vòng rồi hạ xuống đón chúng đi ngay…
Cho đến lúc này tôi mới dám tin là mình đã thoát chết, nhưng vẫn cố sức băng rừng, vừa chạy vừa nghe ngóng, ẩn nấp để đề phòng bất trắc. Lúc này các hụm nước đọng các hốc cây và ăn lá rừng đã giúp tôi lấy lại chút sức lực để tìm đường về đơn vị. Tuy nhiên tôi vừa mừng lại vừa lo: mừng vì vừa thoát chết, nhưng lo là vì mình vẫn còn trong vùng địch hậu, không biết hiện đang ở đâu đây.
Đang lo lắng xác định hướng đi thì thôi bỗng nghe thấy tiếng người dân gọi trâu, tôi liền thận trọng tiếp cận, đến nơi thì đó là một người phụ nữ trạc 40-45 tuổi đang chăn trâu. Tôi đánh tiếng hỏi:
– Bà ơi! Cho con hỏi bản Na Đưa đi đường nào ạ!
-“Phùn”! (kia kìa) Tiếng đáp kéo dài và ngón tay chỉ thẳng.
Chà chà! Chắc còn xa lắm đây. Tôi nghĩ vậy và cảm ơn rồi đi theo hướng đó, nhưng đi được một lúc nghĩ lại tôi thấy chột dạ. “Thôi chết rồi!” mình hỏi sai tên bản rồi. Phải hỏi là Noọng Đưa chứ không phải Na Đưa. Vì theo cơ sở cho biết cơ sở Na Đưa đang có một trung đội biệt kích địch nằm vùng… Biết là hỏi nhầm tôi vội lẩn sâu vào rừng. Đi khoảng được nửa tiếng đồng hồ thì tôi phát hiện một “Thùng Na” (cánh đồng), ở đó có một người đàn ông có lẽ đang thăm đồng? Tôi tiến ra gặp và hỏi thăm đường tiếp thì chợt nhớ ra trên tay mình còn đang bị khóa bởi chiếc còng số 8. Sợ rằng người ta nhìn thấy sẽ nghi ngờ… tôi nghĩ ra cách cởi cái quần đùi đang mặc rồi quấn vào cổ tay để dấu cái khóa vào trong đó cho khỏi lộ liễu. Xong xuôi tôi liền ra gặp người dân và hỏi:
– Ông ơi! Cho con hỏi đường về bản Noọng Đưa đi đường nào ạ?
– Đó kìa! Ông già vừa nói vừa đưa tay chỉ về hướng bản Noọng Đưa.
Cảm ơn và chào ông già, tôi vội rảo bước nhanh. Vừa ra khỏi cánh đồng lại gặp một “thùng na” khác. Đúng rồi! Cái “thùng na” mà hôm trước đội tôi đã đi qua. Từ đây thì tôi đã nhận ra đường để về đơn vị rồi…
Trời sầm sập tối. Chao ôi! Lúc này tôi mới thấm mệt, cái đói cồn cào, sự mệt mỏi lẫn cả đau đớn thân thể làm tôi như muốn khuỵu xuống. Song tôi vẫn phải cố gắng lặn lội băng rừng trong màn đêm. Gặp bản làng mà không dám vào, cứ thế đi đến khoảng một giờ sáng thì tôi tìm về đén bản Phong Pheng là nơi cơ quan Chi khu ở nhờ nhà một đồng chí cán bộ Lào.
Trời tối quá, tôi mò mẫm đến chân cầu thang nơi anh Tửu – Chi khu trưởng ở. Sờ soạng mãi không thấy dép các anh thường ngày vẫn để ở đấy. Tôi chột dạ hay là các anh đã biết chuyện chúng tôi nên đã cảnh giác sơ tán đến nơi khác rồi? Tôi bò vào dưới gầm nhà nghe ngóng. “Ôi! Đây rồi!” tôi thốt lên mừng quá khi nghe tiếng ngáy khò khò quen thuộc của anh Tửu. Tôi bò lên cầu thang và khẽ gõ cửa gọi:
-Anh Tửu ơi! Anh Tửu ơi! Gọi đến hai lần mới nghe tiếng anh Tửu thưa và ra mở cửa.
– Ôi! Lại đấy à? Sao lại như thế này? Mọi người bất ngờ khi thấy tôi xuất hiện trong bộ dạng tiều tụy, tả tơi và đưa cái tay vẫn còn bị khóa còng số 8 treo lủng lẳng ra trước mặt và chỉ vội báo cáo nhanh sự việc đã xảy ra với đội công tác… Các anh lãnh đạo và mọi người trong gia đình ôm lấy tôi òa khóc thương tôi, thương tiếc các đồng chí đã hy sinh…
Ngay sau đó anh Tửu cử anh Lê Thế Kỷ đi tìm cưa sắt về cắt cái còng số 8 trên tay tôi ra, còn anh lên gặp cấp trên gấp để báo cáo tình hình vừa xảy ra với đội công tác của tôi. Khi trở về anh triệu tập cuộc họp, lên kế hoạch đi kiểm tra và giải quyết hậu quả ngay. 4 giờ sáng ngày 23 tháng 4, một lực lượng gồm: Anh Tửu – Chi khu trưởng, tôi và 20 đồng chí thuộc c28 của bạn Lào do đồng chí đại đội trưởng Phim Pha chỉ huy hành quân về bản Hoòng Hạy. Khoảng 1 giờ chiều thì chúng tôi đến bản. Đến đây anh Tửu mới cho bạn Lào biết dự việc xảy ra hôm 20 tháng 4 vừa qua, rồi chia 3 mũi tiến vào trong bản.
Thông tin ban đầu được biết là tay Phò bản (trưởng bản) đã chạy vào vùng địch. anh Tửu cho tập chung dân bản lại và hỏi về sự việc xảy ra ngày 20 tháng 4 vừa qua, nhưng không ai nói gì cả. Khi đồng chí Phim Pha gọi tôi ra thì cả bản ngơ ngác, thấy lạ vì hôm nọ người này đã bị bắt đi sao nay lại có mặt ở đây? Thấy không thể giấu được nên bà con đành phải nói thật sự việc hôm ấy… Họ cho biết 3 người bị bắn ở ngoài suối rồi bị quẳng xác xuống một hố gần đó. Xác 3 người sau đó được bà con vùi đất lấp lại. Và hôm ấy chúng tôi đã cùng bà con dân bản tổ chức đưa xác 3 đồng chí về bản và làm thủ tục mai táng chu đáo trong niềm tiếc thương vô hạn.
Mai táng cho các anh em xong, tôi dẫn anh Tửu và đơn vị bạn cùng đi ra nơi bọn địch canh giữ tôi và anh Khuya để chờ trực thăng đến “bốc” đi. Hiện trường còn đó với 2 vùng máu khô ( một của thằng “chiêu hồi” và một là của thằng lính bị tôi ném bi-đông nước vào mặt trọng thương) cùng đống bông băng.
Viết đến đây bất giác tôi lại thấy ớn lạnh!…
Suy nghĩ và nhớ lại: Chỉ một khoảnh khắc quyết định khi đối mặt với kẻ thù và thoát hiểm trở về tiếp tục cùng đồng đội sát cánh cùng với quân và dân Lào chiến đấu giành thắng lợi cuối cùng. Đó là một kỷ niệm sâu sắc nhất trong đời quân ngũ mà tôi không bao giờ quên được cho đến tận hôm nay. Và sự thiếu vắng những đồng đội của tôi: Thuần ơi! Thiệp ơi! Thanh ơi! Các anh đã hy sinh vì sự nghiệp quốc tế cao cả. Tôi chưa biết các anh còn nằm đâu đó ở nghĩa trang trên quê hương đất mẹ Việt Nam? Hãy cho Phan Văn Lại từ quê hương Trùng Khánh, Cao Bằng một lần nữa tưởng nhớ và thương tiếc!…
Phan Văn Lại