Chiến tranh đến với vùng Phalavẹc, Nhọt Ngừm tiểu khu Bôlikhăn năm ấy giống như một cơn lũ quét vừa đột ngột vừa khác lạ. Chẳng có tiếng bom rơi, đạn nổ. Chỉ nghe tiếng gầm rú của máy bay. Loại máy bay hai thân cánh vuông, bay chậm và thấp, lượn đi rồi lượn lại trên các triền núi có rẫy lúa, rẫy sắn của dân. Lúc đầu mọi người tưởng nó sẽ bắn phá nên chạy ra rừng tìm nơi trú ẩn. Nhưng rồi nó lại bay đi, lát sau quay lại người ta đoán nó sẽ phóng lựu đạn khói xuống chỉ mục tiêu cho máy bay phản lực dội bom, bắn phá.
Nhưng không phải. Nó bay một vòng nữa rồi quay lại hạ độ cao, là là trên các đám rẫy, và phụt ra một làn khói, không phải khói mà là làn mưa bụi, trắng đục như sương mù kèm theo một mùi hôi, hôi đến nghẹt thở, trùm lên nương rẫy, rừng cây, khe suối.
Làn mưa bụi trắng đục chóng tan. Máy bay, bay qua một lúc, mưa tan dần nhưng còn cái mùi hôi thì đọng lại, ngấm vào đất, hòa vào những lá cây bất kể là cây rừng hay cây trồng. Đến hôm sau, lá cây úa vàng rụng rơi tơi tả. Những hạt thóc đã chắc xanh thâm sì, những củ sắn bới lên mủn ra bốc lên một mùi rất khó thở nhức đến tận óc, nghẹt cả lá phổi, nhịp tim đập loạn xạ. Cái mùi đặc trưng của thần chết cứ âm ỉ kéo dài hàng tháng.
Dân lúc đầu tưởng là mùi hôi gió sẽ bay đi, mọi cảnh vật sẽ trở lại yên bình. Nhưng thật khủng khiếp, cả rừng cây, cả rẫy lúa, nương sắn đều vàng khô úa héo. Rồi người ta bắt đầu lo khi nhận ra lúa đã hỏng hết. Trước đây những năm mất mùa do chuột bọ phá hoặc do mưa, nắng thất thường, mưa nhiều đốt rẫy không cháy, nắng nhiều, cây lúa đói nước, nghẹn không trổ được bông, lúa thất thu thì đã có sắn. Sắn ở vùng này được trồng rất nhiều. Hễ rẫy lúa bở là người ta trồng sắn ngay, không bao giờ bở rẫy hoang. Ở đây, có sắn một năm, sắn hai năm, sắn ba năm, thậm chí có sắn lưu ở rẫy đến bốn, năm năm. Lúc đầu, người ta thu hoạch sắn hàng năm. sắn củ thái ra phơi khô để dành, sau sấy cả củ để dành. Và rồi, kinh nghiệm hay nhất là để dành sắn ngay tại rẫy, nghĩa là không thu hoạch, để sắn lưu hàng ba, bốn, năm năm… sắn lưu lại lâu chất lượng có kém do củ sắn bị xơ, ăn sượng. Nhưng cái lợi thì có nhiều, mất mùa lúa đã có sắn. Cây sắn phủ xanh quanh năm. Sắn nhiều đến nỗi thú rừng không phá nổi. Sắn lưu tuy lắm xơ nhưng củ to, ba bốn lớp bột trong củ, chỉ cần một củ cũng đủ vài người ăn. Lưu sắn ở rẫy đỡ tôn công sấy và làm nhà kho.
Thế mà bây giờ, cây sắn lụi hết lá, trơ cành khẳng khiu. Củ sắn đào lên thâm sì, mùi rất nặng. Người ta còn nhận ra không chỉ lúa, ngô, khoai, sắn đến cây cỏ trong rẫy cũng chết hết. Cây mào gà là cây thiêng, cây tỏi, cây ớt, cây gia vị cũng không sống nổi. Rừng quanh rẫy, cả những cây to mấy người ôm cũng trụi hết lá chẳng còn màu xanh.
Điện từ trên quân khu trả lời cho biết: đó là chất độc hóa học của Mỹ (tiếng Lào là “daphítkhêmi”) rải xuống để phá hoại mùa màng. Nó rất độc, cho nện lúa gạo, rau cỏ nhiễm chất độc ấy, phải hủy bỏ không được ăn. Nước bị nhiễm độc không được uống. Nên tránh qua lại vùng đó. Nêu trường hợp không tránh được thì phải lấy khăn hoặc đeo khẩu trang, dấp nước lã hoặc nếu có dầu cù là thì bôi vào mũi tránh mùi hôi. Nên đi giày, dép khi vượt qua. Hiện chưa xác định được hậu quả của chất độc, tác hại với người và gia súc. Nên tránh tiếp xúc và không sử dụng lương thực thực phẩm bị nhiễm độc tránh tác hại. Trên hướng dẫn như vậy là kịp thời và chu đáo. Nhưng dân vùng này sống sao đây. Nếu không có lương thực để ăn.
Không còn hy vọng vào thóc lúa trên rẫy, sắn lưu niên trên rừng. Người ta kiểm tra đến các kho thóc cất giấu quanh rẫy. Thóc của những mùa rẫy trước chín kỹ, khô khén, kho lợp kín, hạt lúa còn nguyên, nhưng sao vẫn có mùi hôi. Cuộc sống trước mắt của người dân trông vào những kho thóc dự trữ này.
Người ta giã thóc, sẩy trấu, hạt gạo không mủn, nhưng màu trắng xỉn và có mùi hôi. Ngâm lên, rồi đồ chín, xôi lên hơi bốc mùi thum thủm hăng hắc! Người ngửi mùi xôi ấy lợm giọng váng đầu, không ai dám ăn, chó hít mùi xôi ấy cũng rít lên rồi bỏ chạy.
Cuộc sống của dân bảy tám bản vùng này bây giờ chỉ còn hy vọng vào rừng đại ngàn. Lo nhất là năm tới không có lúa giống để làm rẫy mới.
Dạo ấy, để đỡ cho dân không phải ăn đói, chúng tôi chia nhau đi các nơi xa để vận động dân vùng khác giúp cho dân vùng bị chất độc hóa học ít thóc gạo.
Đồng chí Xổm Xa Vạt được Ban lãnh đạo Tiểu khu Bôlikhăn cử đi với một tổ công tác xuống vùng địch dọc sông Nặm Xăn tuyên truyền vận động nhân dân các bản Lào Lùm giúp nhân dân vùng dân tộc Lào Xủng lương thực, muối và các thứ cần cho cuộc sống như vải đen, kim, chỉ, xoong nồi, và thuốc chữa bệnh.
Còn tôi cùng với đồng chí Dua Nềnh một du kích H’mông đến bản Pa Me vận động xin thóc giống. Vì được tin bản này còn bốn đám rẫy ở địa thế khuất, máy bay địch không rải được chất độc. Lúa giờ đã bắt đầu chín. Tôi và đồng chí Dua Nềnh trên dốc Phalavẹc xuống bản Xom Bèng qua đám rẫy nhà cụ Chia Xang. Rẫy hoang tàn, mùi chất độc hóa học vẫn còn nồng nặc. Chúng tôi đi nhanh tránh độc. Qua nhà rẫy, thấy cụ Chia Xang đang ngồi trên hòn đá trước chòi, mắt cụ lờ đờ nhìn đám rẫy, chốc chốc lại lắc đầu, thở dài. Đồng chí Dua Nềnh bảo, cụ đã đứt bữa hai hôm. Ngày nào cụ cũng ra đây ngồi nhìn núi rừng nương rẫy.
Tôi chào cụ, đưa biếu cụ miếng lương khô. Dạo ấy chúng tôi ai cũng được phát lương khô để dành phòng khi quá thiếu đói hoặc dùng khi phải luồn sâu vào vùng địch không được đốt lửa nấu ăn tránh lộ bí mật. Cụ cầm lấy, bẻ một mẩu cho vào miệng. Lương khô không tan được trong miệng vì nước bọt đã quánh lại, nhấm nháp mãi, cụ mới nuốt được tí ti. Cái chất lương khô, đối với người đói ăn giống như chất thần dược, nó làm cụ Chia Xang tỉnh lại, mắt cụ có thần sắc hơn. Cụ cám ơn tôi, đứng dậy nói cụ phải mang mẩu lương khô về cho cháu, sợ nó chết mất. Chúng tôi chào cụ, tiếp tục lên đường. Bỗng nghe tiếng cụ gọi giật giọng: các con ơi, quay lại xem cái này lạ lắm. Chúng tôi quay lại, bước nhanh đến bên cụ. Cụ chỉ cho chúng tôi một bụi gừng, lá vẫn xanh không úa héo. Quan sát kỹ, dưới gốc, một mầm non màu đỏ, nhọn hoắt nhô lên đầy sức sống như thách thức sự hủy diệt. Quanh bụi gừng những cấy gia vị khác đều chết hết, lụi tàn hết từ cây ớt bụi sả, bụi riềng, lùm cây ý dĩ, cả những cây mào gà, cây thiêng hay trồng ở rẫy cũng chết khô.
Tôi chợt nghĩ có lẽ bụi gừng cây thấp, được các cây xung quanh ngăn làn bụi độc, nó không dính phải nên không chết. Song nhìn kỹ những cây thấp xung quanh bụi gừng, cả những cây dạng dây bò lan trên mặt đất như rau má, chua me đất cũng chết cả.
Tiếng cụ Chia Xang lại vang lên từ suối. “Các con ơi! Xuống đây xem cái này nữa”.
Tôi và đồng chí Dua Nềnh chạy xuống. Cụ Chia Xang đang đứng bên một cây bứa cao khoảng năm, sáu thước, khoác bộ cành ngang lá xanh um, lộc non của nó phớt màu hồng nhạt đứng sừng sững giữa đám cây rừng trụi lá. Một nhận xét lóe lên: chất độc hóa học Mỹ không có tác dụng đối với cây có củ cay và cây có lá chua. Song cây có củ cay cũng chỉ riêng cây gừng. Những cây khác như sả, riềng đều không sống nổi. Với cây lá chua thì ngoài cây bứa, chúng tôi còn tìm được thêm cây xổm lồm, cây xổm pòi, những cây này lá của nó cũng chua, chúng tôi thường nấu với Ốc suối, cá, ếch, nhái rất ngon.
Cụ Chia Xang khỏe hẳn lên khi phát hiện ra hiện tượng lạ trên. Cụ nói với tôi và đồng chí Dua Nềnh. “Thế là ta đã có cách cứu mọi người khỏi chết đói”. Biết là đi cũng không đến được bản Pa Me nữa, chúng tôi theo cụ Chia Xang về bản, mang theo mỗi người một bó lá bứa.
Về đến bản, cụ Chia Xang bảo người nhà lấy cho cụ hai bát gạo nếp mọi hôm giã trắng, có mùi hôi không ăn được. Cụ lấy bó lá bứa giã nhỏ cho vào nước ngâm, vắt bở bã, đổ gạo vào ngâm. Ngâm nửa giờ, vớt gạo ra. Cụ lấy một củ gừng giã nhỏ, cho vào nước gừng ngâm. Rồi cụ lấy ống bương làm chõ, đổ gạo đã ngâm nước chua và nước gừng đem đồ chín. Mọi người hồi hộp chờ đợi. Nửa giờ sau, xôi lên hơi, tỏa ra một mùi thơm dịu của nếp rẫy pha hương gừng. Cái mùi thơm quen thuộc của sự sống làm mọi người hít thở một cách sảng khoái.
Cụ Chia Xang tự tay dỡ xôi, tãi ra cái vền (một loại mâm gỗ thô), lấy tàu lá cọ quạt cho xôi nguội. Mấy nhà trong bản ngửi thấy mùi xôi cũng kéo đến nhà cụ Chia Xang xem.
Bây giờ đến lượt ăn thử thứ xôi mà gạo đã nhiễm chất độc, ăn có chết người không. Mọi người nhìn cụ Chia Xang chờ đợi.
Cụ nói tao già rồi, để tao ăn trước, nếu xẩy chuyện không may, tao chết cũng chẳng sao. Cụ đưa tay, bốc nắm xôi, nắm thật chặt, vê đi vê lại cho nhuyễn, mặt căng thẳng đầy vẻ suy tư. Vừa lúc ấy, con chó ngửi thấy mùi xôi, liền đứng dậy,bước tới bên cụ hất bàn tay cầm nắm xôi của cụ. Cụ chìa nắm xôi cho nó. Con chó đớp lấy nắm xôi chạy vào góc nhà nhai ngấu nghiên.
Cụ Chia Xang nhìn con chó ăn ngon lành và nói nếu con chó này sống thì cả bản sẽ sống. Lá bứa và gừng từ nay sẽ trở thành cây thiêng.
Cụ cho con chó ăn thêm hai nắm xôi nữa. Con chó chừng đã no, nó quay vào góc nhà ngủ.
Mọi người xôn xao bàn tán. Có người nói, sẽ về làm theo cách cụ Chia Xang, lấy lá bứa và gừng về ngâm gạo đồ xôi. Tẩy hết mùi hôi tức là hết chất độc, gạo lại thơm ngon, nuôi sống con người. Có người nói, trong rừng già không bị rải chất độc. Dân có thể sống nhờ rừng những năm mất mùa. Suối rừng đầy môn thục, sen cạn, lá chua, rồi rau tàu bay, “phắc cụt”. Suối còn có ốc đá, ốc suối, cá chuối đuôi đỏ, chạch kim. Dẻ gai đang mùa rụng quả, gắm đã già. Cây báng, cây tào đang có bột. củ mài củ đẹt có nhiều nhưng mùa khô, lá rụng hết, khó tìm dây. Bí quá dùng đến củ nâu, củ cọi. Nguồn thức ăn động vật cũng giúp ta sống được lâu dài. Không có gạo ngô, khoai, sắn thì ta sống nhờ rừng. Bọn Mỹ, bọn ngụy, bọn phỉ đừng hòng, tiêu diệt chúng ta.
Xế chiều, con chó tỉnh dậy, khỏe khoắn, nó oằn mình, vươn dài thân hình, há miệng ngáp rồi bất thần vùng chân chạy tung tăng, đuôi ngoáy tít, sán đến bên chân cụ Chia Xang dũi mũi vào chân, vào đầu gối, vào tay cụ. Cử chỉ âu yếm biết ơn. Con chó đã hồi sức.
Cụ Chia Xang cười nói lớn: con chó đã ăn thử, nó khỏe mạnh, bây giờ thì ta ăn.
Cụ nắm một nắm xôi, vê một miếng đưa lên miệng nhỏ nhẹ nhai vừa nghe ngóng, thăm dò. Cụ lẩm bẩm: không có mùi hôi, thơm mùi gừng, vị ngọt, càng nhai kỹ càng thấy ngọt. Trước đây lúc bình thường ta ăn với canh rau cải nhạt, không được hưởng cái vị ngọt của xôi lúa rẫy, đáng tiếc, đáng tiếc.
Cụ ăn miếng thứ hai kèm theo một lát gừng, một lát bứa non, một hạt muối,nhai chậm chạp, nhai rất kỹ kiểu như các bà mẹ nhai cơm mớm cho con sợ con hóc, con nghẹn.
Thật kỳ lạ. Cụ Chia Xang không bị ngộ độc.
Cụ Chia Xang mạnh khỏe. Cụ đã có phát hiện quan trọng. Phổ biến cho dân bản mình, cho dân trong vùng, cho cơ quan trong khu căn cứ. Cả một vùng được cứu sống. Gừng và cây bứa, các cây có lá chua được mọi người coi là cây cứu mệnh, thứ cây thiêng hơn cả cây mào gà. Thiêng hơn vì nó cứu sống con người.
Khi tôi nhớ lại và viết những dòng này, chắc là cụ Chia Xang đã được mọi người thân bón cơm lần cuối, được “mỏ dầu” (thầy cúng) đưa hồn về nơi sinh, lấy lá nhau đưa vê mường của cha mẹ tổ tiên từ lâu rồi. Song tôi vẫn nhớ tới cụ, nhớ mãi một cụ già người dân tộc Mèo (nay gọi là H’mông) chữ không biết một “con” thế mà có con mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt nhìn giữa mênh mang, điêu tàn hủy diệt của núi rừng nương rẫy mà phát hiện ra mầm sống, vô hiệu hóa chất độc hóa học Mỹ, có thể gợi ý cho các nhà khoa học phân tích nghiên cứu điều kỳ diệu của lá bứa, củ gừng.
Tôi xin nói thêm một điều. Năm 1970 về nước, sau khi báo cáo kết quả chuyến đi công tác địch hậu Viêng Chăn với lãnh đạo Bạn, tôi ốm nặng phải đi bệnh viện, rồi được đi điều dưỡng ở Quế Lâm – Trung Quốc. Năm 1971 sức khỏe hồi phục. Đầu năm 1972 vợ tôi sinh con thứ ba. Điều tôi mừng nhất là cháu rất khỏe mạnh cao 1,76 mét, nặng 70 kg là huấn luyện viên Taekwondo đệ tam đẳng huyền đai. Phải chăng nhờ gừng và lá chua khử được độc chất của Mỹ rải hủy diệt mùa màng, cây cối mà chúng tôi vẫn được bình thường, không nằm trong diện là nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam của Mỹ. Vợ đồng chí xổm Xa Vạt cũng sinh cháu gái đầu lòng vào thời kỳ này.
Khi cụ Chia Xang thực hiện xong cuộc thí nghiệm khử độc bằng gừng và lá bứa, đồng chí Dua Nềnh và tôi đi Pa Me vận động thóc giống. Theo chỉ đạo của đặc khu Phalavẹc – Nhọt Ngừm. Cố gắng chia ba số thóc của bôn rẫy không bị nhiễm độc. Một phần để lại chủ nhân, một phần phục vụ thương bệnh binh, bộ đội chủ lực hành quân qua, một phần bằng bất cứ giá nào, cũng không đụng đến, để giành làm giống cho mùa rẫy tới.
Đến Pa Me, thăm hỏi mùa màng, dân cho biết, bốn rẫy không nhiễm độc đã thu hoạch xong và đã chia hết. Cái tin làm chúng tôi choáng váng. Vội hỏi: “Chia thế nào?” Trả lời: “Chia ba, một phần giành làm giống, một phần nộp vào quỹ thóc cứu quốc, một phần nữa chia đều cho dân bản tính theo đầu người. Phụ nữ có mang được hai phần, một phần cho mẹ, một phần cho con trong bụng”.
Tôi hỏi: “Thế bốn gia đình có rẫy không được chia thêm ư?”. Đáp: “Đó là ý kiến của họ. Mà ý kiến của họ cũng là ý kiến chung của mọi người. Người H’mông sống chết có nhau. Sướng cùng sướng, khổ cùng khổ mà. Năm nay họ không bị thiệt hại, sang năm biết đâu. Cho nên chia đều là đạo lý”.
Phương án chia tuyệt vời. Phải là người dân có tính cộng đồng cao, sống chết có nhau mới có cách chia như vậy. Ở đây, hầu như quyền lợi cá nhân nằm trong quyền lợi cộng đồng, hòa chung với quyền lợi cộng đồng. Hai hôm sau chúng tôi trở về cơ quan Tiểu khu Phalavẹc – Nhọt Ngừm báo cáo công việc với ban lãnh đạo.
Đào Văn Tiến