Phần II: Nhắn ai về Bản Hua Nà – “Gần 50 năm qua nhưng vẫn không quyên”
Ngược dòng lịch sử: Năm 1969, lợi dụng mùa mưa từ ngày 31/7/1969 đến tháng 2/1970, địch huy động gần 12.000 quân ngụy Lào, 5.000 lính đánh thuê Thái Lan, 100 máy bay trực thăng, hàng chục khẩu pháo lớn và xe cơ giới, được không quân Mỹ chi viện từ 120 đến 150 lần chiếc máy bay (có cả B52) một ngày, mở chiến dịch tiến công lớn mang tên “Cù kiệt” (cứu danh dự) vào Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng.
Mở đầu cuộc hành binh, không quân Mỹ đánh phá nhiều đợt vào các tuyến Bản Na, Mường Pốt, Phu Sen Luông và khu tứ giác: Phu Keng, Khang Khay, Phu Xeo, Phu Theng Leng… Tiếp đó, bộ binh địch địch tiến công trên hai hướng bắc và nam.
Khi địch đánh vào Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, lực lượng của ta rất mỏng, chỉ có một số ít đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam (QTN) trụ lại. Có Trung đoàn 866, Trung đoàn 174 (sư 316), một số phân đội công binh đảm bảo đường số 7, Đội đặc công 6, một bộ phận hậu cần và lực lượng vũ trang đia phương của bạn (Tổng kết CD 139 của Cục Tác chiến, ngày 03/11/1970 tr.5,6)
… Tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch đáng kể. Hầu hết các đơn vị QTN Việt Nam và bộ đội Phathet Lào đã gặp muôn vàn khó khăn gian khổ trong tác chiến. Vì cứ vào mùa mưa việc tiếp tế từ hậu phương vào là cực kỳ vất vả. Dưới mặt đất mưa rừng đổ xuống, lũ về, trên trời máy bay địch quần đảo cả ngày lẫn đêm ngăn chặn đường tiếp tế của ta. Lương thực thực phẩm thiếu, vũ khí cạn kiệt, thuốc men cứu chữa thương bệnh binh không có mà thương vong, bệnh tật ngày càng tăng…
Cùng lúc, Mỹ và chính quyền phản động Lào tăng cường câu kết lôi kéo dân bản về vùng do chúng kiểm soát để bắt lính, để vô hiệu hóa lực lượng Phathet Lào. Ai không theo chúng đánh đập, ức hiếp thậm trí bị đàn áp cho tới chết. Đứng trước sự khốc li của cuộc chiến đang ập tới, bà con nhân dân các bản làng Xiêng khoảng đã dắt dứu, bồng bế nhau chạy về phía đông dãy Trường Sơn, chạy về bên kia biên giới Việt Nam – Lào.
Cô bé Sunthon Saynhachac khi đó mới 10 tuổi, cô đã cùng gia đình và những người chạy loạn ngày đó may mắn thoát khỏi sự bám đuổi của địch, và họ đã về tới Bản Hua Nà, huyện Con Cuông… Từ vòng tay yêu thương của những người mẹ, người chị bản Hua Nà đã phần nào giúp cô trưởng thành như ngày nay… Với một trọng trách quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, cô bé – đồng chí Sunthon Saynhachac đã chia sẻ về những ngày tháng chạy loạn, và rất mong tìm lại những con người đã cưu mang mình ngày ấy…
Gần 50 năm nhưng vẫn không quên – Sunthon Saynhachac
(Ký ức người lính, Tập 11, trang 382, Nhà XB Thông tin và Truyền thông)
” Năm 1969, khi chiến tranh của Mỹ tại tỉnh Xiêng Khoảng đang ở giai đoạn khốc liệt nhất, nhân dân Xiêng Khoảng phải đi sơ tán về phía Đông. Khi đó tôi mới 10 tuổi, vừa thi xong lớp 4, trong giai đoạn chỉ có tiếng súng của quân thù. Vừa đúng lúc thi xong thì bố mẹ, anh em tôi cùng với người dân trong bản lên đường, vượt qua bao núi, rừng và cũng không biết là phải mấy ngày mấy đêm mới đến được biên giới với Việt Nam để đi đến tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Trong chuyến đi ấy, chúng tôi đã gặp biết bao nhiêu là khó khăn, ví như bố tôi là trụ cột trong gia đình lại bị thương nên phải nhờ anh em dìu. Có một hôm, khi đã đi đến hết nửa đường thì chúng tôi phải nghỉ lại để tìm thức ăn và cũng chính đêm đó, lực lượng phía Viêng Chăn đã cử nhiều binh lính và cả máy bay để cản trở đường đi của người dân Xiêng Khoảng với mong muốn sẽ bắt tất cả về Viêng Chăn… Trong đêm hôm đó, nhờ có sự giúp đỡ của đơn vị bộ đội Lào và bộ đội Việt Nam gia đình tôi là một gia đình may mắn đã tránh được tay địch, một nửa nhân dân của bản đã bị chúng lùa về Viêng Chăn, nhân dân trong bản cũng bị chia cắt kể từ hôm đó cho đến khi đất nước được giải phóng, một số dân bản không có cơ hội để trở về quê hương của mình nữa.
… Khi chúng tôi tới Nghệ An Việt Nam… để xây được trường học dành riêng cho học sinh Xiêng Khoảng cũng mất một khoảng thời gian. Do đó, chúng tôi phải ở trong nhà người dân ở bản Hua Nà, chia ra một nhà ở từ 5 -6 người… Khi đó, tôi cũng được ở trong một nhà dân tại bản, đến nay, tôi vẫn không thể nhớ ra tên của gia đình đó, bởi lúc đó còn nhỏ quá. Tôi được ở trong ngôi nhà đó với nhiều anh, chị em khác, còn chị cả của tôi thì phải ở trong một gia đình khác gần đó… Dù là người bé nhất trong ngôi nhà đó, nhưng tôi vẫn cố gắng làm việc nhà để giúp đỡ người lớn. Khi đó cuộc sống rất khó khăn, người lớn nấu cơm độn với sắn (lúc đó mọi người nấu cơm cho người Lào ăn, còn mọi người đều ăn độn sắn, hoặc độn ngô), gia đình đó thường xuyên nắm cơm nóng hổi đưa cho tôi ăn, thỉnh thoảng tôi cầm nắm cơm nắm để vào vạt áo đi chia cho chị ăn nữa…
Nghĩ đến đây thôi tôi thấy rất bồi hồi vì kể từ đó vẫn chưa được gặp lạí người đã cưu mang mình. Họ chính là những người đã cho tôi ăn cơm nóng hổi trong lúc đói kém, thiếu thốn đủ đường vì ảnh hưởng của chiến tranh.
Trong thời gian tôi được làm việc ở Việt Nam, tôi thường hay hỏi về gia đình đó nhưng cũng không có tiến triển gì vì tôi có quá ít thông tin về gia đình đó… Tuy nhiên, tôi vẫn không dừng việc cố gắng tìm kiếm, liên lạc với bạn bè Việt Nam ở tỉnh Nghệ An để có cơ hội gặp lại thành viên trong gia đình để bày tỏ lòng biết ơn… Nhưng thời gian trôi qua, tôi vẫn chưa thể thực hiện được mong muốn của chính mình. Cũng có thể, những người đã từng chăm sóc tôi đã ra đi, chỉ còn lại những ký ức tươi đẹp của tôi mà thôi.
Ký ức về tình thương yêu, đùm bọc của nhân dân Việt Nam nói chung, của gia đình cưu mang tôi ở bản Hua Nà, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, Việt Nam nói riêng, và trường hợp của tôi cũng chỉ là một trong hàng trăm, hàng nghìn trường hợp thể hiện những tình cảm sâu nặng, mối quan hệ sâu sắc của nhân dân hai nước Lào – Việt Nam.
Dù có gặp được hay không gặp được do thời gian trôi qua và có thể những thành viên trong gia đình không còn nữa nhưng tôi sẽ mãi gìn giữ những ký ức tốt đẹp đó mãi mãi và sẽ cố gắng làm mọi việc để đóng góp cho việc vun đắp mối quan hệ đặc biệt Lào – Việt Nam mãi mãi trường tồn…”
Trần Phong