Các doanh nghiệp nội địa Lào có thể tận dụng một trong các kênh tiếp cận thị trường tiêu dùng phổ biến là hệ thống các cửa hàng tiện lợi.
Nhận định được đưa ra từ kết quả khảo sát thị trường tiêu dùng của các chuỗi cửa hàng tiện lợi tại thủ đô Vientiane do Lao Phatthana thực hiện.
Theo đó, đợt khảo sát được tiến hành đối với các thương hiệu cửa hàng tiện lợi lớn như Sokxay Mart, Simuang, Sky-Supermarket, Mini Big-C, Bazaar-B, Jiffy và J-mart theo hình thức thu thập thông tin dạng mở. Các thương hiệu nằm trong diện khảo sát đều sở hữu mạng lưới cửa hàng có cơ cấu quản lý tốt, hệ thống trị hiện đại và là lựa chọn quen thuộc, phổ biến của người tiêu dùng Lào, từ đó xác định cụ thể cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng nguyên liệu, sản phẩm tiêu dùng của doanh nghiệp nội địa cả trong cũng như sau giai đoạn ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và đưa ra phương hướng phù hợp để doanh nghiệp cải thiện chất lượng và năng lực kinh doanh của mình qua kênh tiêu dùng phổ biến hàng đầu tại Lào này.
Khảo sát lần này cũng nhằm tìm lời giải đáp cho câu hỏi liệu “sự gián đoạn dòng hàng nhập khẩu có phải là yếu tố thúc đẩy xu hướng nhập hàng hóa nội địa của các hãng cửa hàng tiện lợi tăng lên hay không?”
Cơ sở dữ liệu của kết quả khảo sát lần này được kỳ vọng giúp doanh nghiệp trong nước tăng cường khả năng thích ứng và tiếp cận thị trường trong các bối cảnh biến động, từ đó thúc đẩy chất lượng sản phẩm nội địa để nhận được sự thừa nhận rộng rãi hơn từ người tiêu dùng.
Nội dung khảo sát bao gồm việc so sánh hoạt động của cửa hàng tiện lợi ở Lào trong việc sử dụng nguyên liệu, hàng hóa trong nước ở 3 giai đoạn, bao gồm trước, trong và sau khi thực hiện các biện pháp phòng ngừa Covid-19 do chính phủ ban hành theo hai trường hợp.
Thứ nhất, nếu trong giai đoạn thực hiện các biện pháp phòng ngừa, tỷ trọng nhập nguyên liệu/sản phẩm nội địa của các cửa hàng tiện lợi tăng lên hơn so với giai đoạn trước khi áp dụng thực hiện các biện pháp đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp trong nước đang tăng tỷ lệ chiếm giữ hoặc bắt đầu tham gia nhiều hơn vào thị trường tiêu dùng tiện lợi.
Thứ hai, dựa trên hành vi và quan điểm của chủ các thương hiệu cửa hàng tiện lợi: Nếu sau giai đoạn thực hiện biện pháp phòng ngừa dịch bệnh vẫn tiếp tục nhập nguyên liệu/sản phẩm của doanh nghiệp trong nước có nghĩa là các sản phẩm trong nước đã có sự phát triển về năng lực và công nghệ sản xuất để cạnh tranh tốt hơn trên thị trường.
Qua những số liệu khảo sát thu thập được, nhìn chung các cửa hàng tiện lợi ở Vientiane đều cho biết đã gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh Covid-19 của chính phủ Lào, điều này thể hiện rõ qua doanh số bán hàng giảm sút, đặc biệt là các mặt hàng gia dụng và đồ uống có cồn. Tuy nhiên, các mặt hàng thực phẩm lại ghi nhận sự gia tăng doanh số, mà trong đó mặt các sản phẩm nội địa, chủ là đồ tươi sống (rau, thịt), đồ khô (thịt khô, mì tôm…), mặt hàng đông lạnh (thịt, thịt viên), bánh kẹo ( bánh mỳ, sandwich), đồ uống (bia, rượu, nước ngọt…), sữa( sữa tươi, sữa chua) và các mặt hàng khác
Trước đó, sản phẩm chủ lực của các chuỗi cửa hàng tiện lợi hầu hết xuất phát từ nước ngoài, phần lớn là đồ tiêu dùng phổ thông, thức ăn đóng hộp, rượu, sữa, nước hoa quả, hoa quả và hàng thành phẩm mà trong nước không có hoặc không thể sản xuất.
Cơ hội cho doanh nghiệp nội địa
So sánh giai đoạn khi áp dụng các biện pháp phòng dịch với giai đoạn trước đó có thể thấy các cửa hàng tiện lợi đã sử dụng và nhập nguyên liệu từ các đơn vị trong nước nhiều hơn mức trung bình từ 20% đến 25% so với tỷ trọng hàng nhập khẩu (tăng trưởng khoảng 5%), điều này phản ánh tỷ lệ bán các sản phẩm nôi địa tăng lên trung bình 24%.
Có thể nhận thấy rằng, một số sản phẩm nội địa có thể thay thế hàng nhập khẩu và bán chạy trong giai đoạn đóng cửa biên giới, nổi bật nhất là bánh mì với lượng sản phẩm bán ra tăng 20-40%. Bên cạnh đó, ngoài nhập hàng từ nhà cung cấp trong nước, một số cửa hàng tiện lợi đã tự tăng cường sản xuất các mặt hàng của mình, bao gồm bánh kẹo và các mặt hàng khô như: thịt khô, cá khô, mỳ khô, nấm khô, nước chấm truyền thống… và được người tiêu dùng khá ưa chuộng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp trong nước còn có cơ hội trao đổi thông tin tiếp thị, phát triển sản phẩm, được sự tư vấn và hỗ trợ phát triển sản phẩm từ hãng tiêu dùng tiện lợi, đặc biệt là công đoạn đóng gói sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, đảm bảo tiêu chuẩn của sản phẩm và khả năng tiếp thị.
Những rào cản đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hóa nội địa
Mặc dù các doanh nghiệp sản xuất hàng nội địa có cơ hội để gia tăng thị phần, nhưng độ đa dạng sản phẩm trong nước hiện đang thấp hơn các sản phẩm nhập khẩu. Đồng thời, một số sản phẩm sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng khi đang phải lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, vốn bị gián đoạn trong giai đoạn phòng chống dịch Covid-19
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nội địa còn gặp khó khăn trong khâu vận chuyển do các quy định hạn chế đi lại để phòng dịch. Đồng thời, yêu cầu giãn cách xã hội cũng khiến người tiêu dùng hạn chế ra ngoài, đã góp phần làm giảm doanh thu của nhiều mặt hàng tiêu dùng.
Mặt khác, có một số nguyên liệu/hàng hóa mà các cửa hàng tiện lợi nhập từ các doanh nghiệp trong nước có giá thành cao hơn nhập khẩu, nhưng do thời kỳ đó không có nhiều lựa chọn và vấn đề nhập khẩu cũng gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, các cửa hàng tiện lợi còn đưa ra điều kiện và tiêu chuẩn cao khi nhập hàng, đặc biệt là thực phẩm, mặt hàng cần phải có chứng nhận vệ sinh an toàn và đạt tiêu chuẩn về đóng gói, bao bì. Đây là một trong các thách thức lớn cho doanh nghiệp nội địa, vốn hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình sản xuất.
Quan điểm của các hãng kinh doanh tiện lợi đối với sản phẩm nội địa và xu hướng hậu Covid-19
Hầu hết các chủ thương hiệu kinh doanh tiện lợi nhận định phần lớn các sản phẩm nội địa có thể thay thế hàng nhập khẩu, nhưng chưa đảm bảo được đủ số lượng và nguồn cung không ổn định.
Theo đó, xu hướng hậu đại dịch Covid-19 vẫn là duy trì nhập nguyên liệu, sản phẩm nội địa nhưng số lượng có thể giảm xuống và phụ thuộc vào thị hiếu cũng như hành vi mua sắm của người tiêu dùng trong nước.
“Các doanh nghiệp nội địa cần cải thiện sức cạnh tranh về giá thông qua việc cắt giảm chi phí đầu vào sản xuất, nâng cấp quy trình đóng gói, bảo quản, thường xuyên phát triển sản phẩm mới để đảm bảo tính đa dạng. Điều này đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực dành được sự thừa nhận của người tiêu dùng”.
Cửa hàng tiện lợi cũng kêu gọi chính phủ xem xét có những chính sách khuyến khích sản xuất trong nước, đặc biệt là hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ có thể tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm với các doanh nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp tiêu chuẩn, đồng thời xem xét chính sách giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) cho các mặt hàng thực phẩm chế biến và mặt hàng truyền thống địa phương cho các cửa hàng tiện lợi.
“Áp dụng chính sách ưu đãi thuế và tạo điều kiện tiếp cận thị trường có thể giúp doanh nghiệp nội địa nâng cao sức cạnh tranh”.
Doanh nghiệp nội địa Lào vẫn cần cải thiện sức cạnh tranh để dành nhiều thị phần hơn
Trên thực tế, trong giai đoạn phòng chống dịch bệnh Covid-19, doanh thu của các sản phẩm nội địa Lào tăng lên khoảng 24%, đây được xem là tín hiệu tốt.
Mặc dù đứng trước nhiều cơ hội, các doanh nghiệp Lào vẫn thiếu sự đa dạng về sản phẩm, giá cả không cạnh tranh do chi phí đầu vào cao, phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, trong khi dây chuyền sản xuất chưa được hiện đại hóa.
Ngoài ra, chất lượng sản phẩm nội địa Lào đang nằm ở mức trung bình, chưa đạt tiêu chuẩn về đóng gói bao bì, thiếu chứng nhận an toàn trong tiêu dùng, nhất là hàng thực phẩm, công tác quản lý chuỗi cung ứng chưa tốt phản ánh qua việc không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Tổng hợp