Bôlôven, tháng 5 năm 2012
Cuối năm 1967, Ban công tác miền Tây (CP38) quyết định điều tôi đi Nam Lào thay đồng chí Giang Đức Tuệ, làm tổ trưởng tổ chuyên gia Tuyên huấn giúp Khu ủy Nam Lào. Lúc này Trung ương ta nhận định kẻ địch có thể chia cắt Đông Dương ra làm đôi, nên phía Nam cần được tăng cường giúp Bạn phòng khi liên lạc Bắc – Nam bị khó khăn. Bạn mới thành lập Khu Nam, mọi việc đang bắt đầu.
Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam giúp Cách mạng Lào cùng bộ đội PhathetLao thảo luận phương án hoạt động trong kháng chiến chống Mỹ
Khi mọi thứ chuẩn bị vừa xong thì cơ quan báo cho tôi ngày 25/1/1968 (tức 26/12 âm lịch) lên đường. Cục cung cấp cho tôi một xe con đi tới Nam Lào. Trước đó tôi không dám đi thăm vợ (vợ học ở Tân Yên, Bắc Giang), không dám đi thăm con (con sơ tán tận Ngã ba Hàng Đồi – Hòa Bình). Vì sợ đến đó rồi bận lòng khó rứt ra đi được. Tôi chỉ biên thư để lại nhà để vài hôm nữa vợ về Tết sẽ đọc. Còn ba ngày nữa đến Tết mà ra đi không một lời chào, trong bụng đầy nỗi xót thương!
Năm giờ chiều chúng tôi rời Hà Nội. Vừa đi vừa tránh máy bay, qua hai đêm, gần sáng ngày 27/01 mới đến T78 Hà Tĩnh. Ban ngày nghỉ lại đây và lĩnh quân tư trang và các vật dụng khác. Anh em ở trạm mời chúng tôi ở lại ăn tết, đến ngày mùng 4, mùng 5 tết hãy đi. Tôi từ chối, vì từ giã Hà Nội đến đây nằm thì vô nghĩa quá. Tôi bảo lái xe chuẩn bị xăng dầu để ngày 28 lên đường đi 050 (Bản Na Phầu) tỉnh Khăm Muộn. Cậu lái xe muốn ở lại, cứ kêu là xe hỏng. Tôi bảo cố chữa cho kịp đi, vì công tác rất gấp. Cậu ta chần chừ không muốn đi. Tôi bảo cậu ta liên hệ với trạm sửa chữa xe ở Mụ Dạ, sửa xe cho kịp đi và đưa tôi đến 050 tôi sẽ đi xe của tuyến, cho cậu về ăn tết với vợ con. Thế là cậu ta lo xong ngay.
Bốn giờ chiều ngày 28 tết (mai đã là 30 vì tháng thiếu) lái xe đưa tôi đến 050. Cậu ta vào Trạm thương lượng gửi tôi. Anh em Trạm từ chối. Tôi đành phải xuống xe, xin gặp đồng chí phụ trách Trạm, nói rõ nhiệm vụ vai trò của tôi và bỏ vài bao thuốc mời anh em mỗi người một vài điếu. Lúc đó anh em mới nhận lời và đưa tôi lên nằm trên xe tải gạo. Năm giờ, xe chạy dọc đường có những cụm tre gai, cành tủa ra đường cào sát xe nhìn thật dễ sợ. Xe cứ chạy, gai cứ móc vào người, rách áo, rách thịt da, máu chảy đầm đìa. Chúng tôi lập tức băng bó cho nhau và chất lại gạo để có những cái rãnh người nằm vào đấy. Trên chuyến xe ấy có tôi và ba đồng chí nữa, nhưng không biết họ đi về phương nào.
Khi xe chạy đến Na Tơ thì 3 chiếc máy bay địch đến thả pháo sáng, dội bom napan cháy sáng rực một vùng trời và đuổi theo chúng tôi. Đoàn xe cứ chạy. Hai xe lên trước bị địch bắn bị thương đã lết ra bên ngoài nằm, nhường đường cho xe dưới lên. Xe chạy mãi. Đạn bắn vèo vèo bên tai. Xe vẫn chạy. Hết đường rừng xe lại lội ngầm qua sông, qua suối. Có đoạn đi ven thao na. Xe chạy mãi đến một khu rừng, người lái xe đổ chúng tôi xuống lúc 5 giờ sáng cùng một số bao, thùng hàng. Chúng tôi đinh ninh rằng trong cơ quan Phân đoàn sẽ có người ra đón. Đến đó tắm rửa xong sẽ làm một giấc cho lại sức.
Nào ngờ mãi đến 7 giờ hơn, đồng chí Đậu Ngọc Quán, văn phòng Phân đoàn mới dẫn vài anh em ra nhận hàng. Đồng chí Quán báo cho tôi biết: “Mới hôm qua cơ quan ta bị máy bay địch bắn phá. Nhà cửa bị cháy cả. Có một đồng chí hy sinh. Chôn cất các đồng chí xong, cơ quan lại mang những thứ còn lại đi tìm chỗ ở mới. Hiện nay anh em đang đào hầm và làm nhà ở chứ có ai nghĩ gì cái tết đâu”!
Tôi nhờ Quán đưa vào chỗ chuyên gia Tuyên huấn. Đến nơi có các anh Giang Đức Tuệ, Hoàng Xuân Dục, Nguyễn Giang, Sĩ Danh Nghi và Đặng Văn Thành. Còn Bùi Kế đang ở trường Đảng Khu. Các anh đang chặt cây, đào hầm làm chỗ ở. Thấy tôi, các anh chào và dừng tay uống nước. Tôi bỏ gói mứt và vài bao thuốc lá (mới mua ở Hà Tĩnh) ra mời, các anh vui vẻ hàn huyên với nhau được một lúc, rồi lại làm tiếp. Tối đó chúng tôi thức đón giao thừa. Quá nửa đêm mệt quá, lăn ra ngủ. Mãi sáng dậy mới nghe tin miền Nam thắng lớn. Các đồng chí Bạn gặp chúng tôi đều chúc mừng thắng lợi.
Hôm sau, độ 10 giờ anh Tuệ đưa tôi vào cơ quan Phân đoàn chuyên gia để chào và mừng năm mới các thủ trưởng. Đến nơi, cơ quan Phân đoàn vừa tìm được chỗ ở. Đồ đoàn còn để từng đống dưới gốc cây. Anh Ngô Thế Sơn và anh Phạm Thành tiếp chúng tôi một lúc. Các anh nói qua tình hình nhiệm vụ và những khó khăn, “mong các đồng chí chung tay góp sức”. Sau đó đồng chí Quán bảo chúng tôi lúc về ghé nhận hàng tết cho anh em (mỗi đồng chí 1 chai rượu, 1 tút thuốc lá và một hộp mứt hoặc kẹo). Lúc về, chúng tôi ghé vào các đồng chí quân sự chào và chúc mừng năm mới. Anh Sinh, Phó Tư lệnh kể chuyện về chiến thắng ở miền Nam.
Chúng tôi về lại chỗ cũ, tiếp tục làm nhà đào hầm và mở đài nghe chiến thắng. Hằng ngày anh em lo đào hầm, làm nhà để có chỗ ở đã. Phần công tác chuyển sang ban đêm. Đêm đầu họp anh em, anh Tuệ giới thiệu tôi vào thay anh ấy và giới thiệu nhiệm vụ công tác của từng anh em được phân công: anh Dục và anh Giang lo công tác Tuyên truyền Văn hóa, anh Thanh Thông tấn xã, anh Nghi, anh Kế lo công tác Huấn học và Nhà trường. Anh ấy phụ trách chung và giúp một phần công tác Huấn học. Anh báo cáo qua chương trình công tác quí. Trong tình hình hiện nay: ban ngày tập trung làm nhà, việc chuyên môn chuyển sang ban đêm. Tuy vậy, anh nào có việc cần gặp Ban cử đi hoặc Bạn cần đến làm việc với đồng chí nào thì đồng chí đó ra tiếp và làm việc với Bạn. Cơ quan Khu Bạn ở gần ta nên tiếp xúc đi lại cũng thuận lợi. Đến bữa, đồng chí nào đến lượt được phân công thì ra nấu nồi cơm, nướng mấy con cá khô hoặc cá hộp là xong chuyện.
Chúng tôi vừa làm nhà ở, vừa giúp bạn rất khẩn trương cả ngày lẫn đêm và cuối cùng đều xong cả. Khu ủy mở hội nghị học Nghị quyết trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào cho cán bộ đầu ngành, các chuyên gia đầu ngành (nói chuyên gia chứ thực chất là một cánh quân). Tôi được các anh Phân đoàn (toàn Lào là cấp Đoàn) phân công giúp Khu ủy trong Hội nghị này. Trong hội nghị bên Bạn có đồng chí Khăm Xúc (anh Thẻm) ủy viên Trung ương làm Bí thư; đồng chí Phô Ma, Ủy viên Trung ương, Khu ủy viên, Tư lệnh Quân Khu; đồng chí Chăn Xa, Khu ủy viên phụ trách Mặt trận; đồng chí Bun Thà Khu ủy viên phụ trách Tuyên huấn; đồng chí Xổm Xừn Khu, Ủy viên thường trực. Hội nghị nghiên cứu Nghị quyết trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào và bàn kế hoạch đẩy mạnh công tác ở Khu Nam nhân đà thắng lợi của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhất là phải đẩy mạnh công tác địch hậu và công tác quân sự.
Cứ tối đến anh Khăm Xúc, Bí thư, hay sang chơi với tôi. Tôi trình bày tình hình chung, tình hình Việt Nam cho anh nghe. Tôi vẽ bản đồ thế giới, bản đồ Đông Dương bằng vải để khi nói chỉ cho anh rõ. Anh hỏi tôi làm cách nào để cho anh em Lào hăng say công tác như các đồng chí Việt Nam. Tôi nói: “Đó là việc làm rất khó và lâu dài. Phải kiên trì giáo dục anh em, làm cho họ rõ vì sao phải làm cách mạng, có lợi gì cho đất nước, cho bản thân và phải có chính sách giải quyết gia đình cho họ thì họ sẽ tự nguyện làm và làm đến nơi đến chốn. Anh Bun Thà phụ trách tuyên huấn nhưng ít sang chơi ban đêm và cũng ít hỏi những điều ngóc ngách và sâu lắng như vậy.
Sự bình yên của những miền quê trên đất nước Triệu Voi ngày nay
Giữa năm 1968 có anh Vithulệt, Chủ tịch Hội sinh viên Lào ở Viêng Chăn ra với ta, nói là đi theo kháng chiến. Bạn nhờ tôi gần gũi giáo dục và tìm hiểu tư tưởng anh ta xem sao? Một hôm nhân nói chuyện, tôi phân tích đế quốc Mỹ xâm lược làm hại nhân dân và chủ trương kháng chiến của Pa thét lào. Anh ta cãi lại là Mỹ không phải như vậy, họ đến đâu đều khai phá đất đai, mở mang công việc. Nhân dân có việc làm, cuộc sống khá ra. Tôi hỏi: Mỹ tốt như vậy tại sao anh không ở với nó mà lại ra với kháng chiến? Tại sao nhân dân có những cuộc đấu tranh chống Mỹ ở nơi này nơi khác. Cả nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào chống Mỹ, anh có thấy không? Ngay cả ở Viêng Chăn sinh viên đã cùng nhân dân chống Mỹ kia mà. Anh ta ngồi nghe chăm chú và xin để suy nghĩ thêm. Có những buổi chiều anh ta bảo đi ra rừng kiếm cái ăn, lúc đi với người này, lúc đi với người khác. Tôi biết là anh ta đi liên lạc với Viêng Chăn. Công tác tư tưởng phải tiến hành kiên trì, mỗi ngày làm một ít.
Tháng 7/1968, tôi và vài đồng chí trong tổ đi nghiên cứu tình hình Sa vẳn. Đến nơi chúng tôi làm việc với tổ chuyên gia trước đã. Cái khổ là gặp anh Song… Anh là tổ trưởng tổ chuyên gia Sa vẳn. Mọi việc phải có anh, phải do anh trước đã. Anh chưa phát biểu, chưa nhận xét vấn đề gì thì trong tổ không ai được nói ra cả. Đến hôm làm việc với anh, anh nói việc gì cũng tốt cả. Mặt nào cũng tốt cả. Và phê phán Phân đoàn làm cái này chưa đến nơi, làm cái kia chưa tích cực. Tôi suy nghĩ làm việc kiểu này thì tập thể ở đâu, vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ thế nào, vai trò Bạn đến đâu? Anh em bảo anh Song thì xưa nay vẫn thế. Chúng tôi xin đi các địa phương để nắm tình hình.
Chúng tôi đi vài tháng xuống các huyện Mường phìn, Sê pôn. Có nơi phong trào khá thật. Nhưng có nơi cũng rất ỳ ạch. Cái lớn nhất lộ ra là anh em ta bao hiện làm thay, áp đặt cho Bạn. Cán bộ Bạn có một số ít đã làm được, nhưng phần lớn vẫn chờ đợi, ỷ lại vào anh em ta. Cái thứ hai là nhiều làng dọc đường tuyến nhân dân phải bỏ làng, chạy dạt ra hai bên, đời sống không ổn định, thật khó khăn. Nhưng họ không trách móc gì ta cả, mà còn sẵn sàng giúp đỡ anh em Việt Nam, “hễ Việt Nam thắng thì Lào chúng tôi mới thắng”.
Chúng tôi về Khu. Cả ta và Bạn đều cùng nhau chuẩn bị mọi điều kiện và phương tiện cho hoạt động mùa khô tới (1968-1969). Ở Lào mùa khô từ tháng 11 năm nay đến tháng 4 năm sau. Chúng tôi chuẩn bị kế hoạch tuyên truyền thắng lợi mùa khô. Tuyên truyền kế hoạch chống địch đi càn. Viết và in truyền đơn, tờ bướm, tin phục vụ chiến dịch và vùng địch hậu. Viết và chỉnh lý bài giảng cho Trường…
Tình cảm của nhân dân các bản làng Lào đón tiễn những người con đất Việt sang làm nhiệm vụ quốc tế giúp CM Lào trong kháng chiến chống kẻ thù chung
Mùa khô 1968-1969 cũng đã đến. Khu ủy chủ trương đẩy mạnh hoạt động quân sự, chính trị vào vùng Pắkxê, Bôlôven, Xalavan. Chuyên gia đi chiến dịch bên Phân đoàn có anh Ngô Thế Sơn và mấy anh cán bộ nữa, bên Tuyên huấn có tôi và anh Giang. Anh Giang đi vào Lào Ngam (Xalavan). Còn tôi đi vào Pắkxê góp phần đẩy công tác đô thị. Chiều hôm trước ngày ra đi, máy bay địch đến bắn hàng chục quả rốc két vào chỗ ở, cách hầm chúng tôi chưa tới một trăm mét. May không xảy ra chuyện gì, ngoài việc nhà bị tốc mái bay đi. Vithulệt cùng đi với tôi. Cán bộ tại chỗ có đồng chí Khăm Phủi, Tỉnh ủy viên Xalavan (sau này là Trung ương ủy viên và Phó Thủ tướng Lào) và Xỉ Phương, cán bộ hoạt động thị xã Pắkxê. Cùng đi với cánh này có 1 đại đội võ trang tuyên truyền và sẵn sàng chặn địch từ Pắkxê ra Lào Ngam.
Khi đến cách Pắkxê vài dặm (đường chim bay) 2 trung đội đi bố trí đánh viện, 1 trung đội hoạt động bảo vệ chúng tôi. Tôi, Khăm Phủi và vài cán bộ vào trong rừng, còn Xỉ Phương và Vithulệt và vài cán bộ nữa vào thành phố hoạt động và hẹn sau 4 đêm sẽ gặp lại. Anh em đi xong, chúng tôi chuyển ngay chỗ ở để phòng sự chẳng lành. Khi các đồng chí trở ra cho biết mọi việc đều êm đẹp. Anh em đã liên lạc được với nòng cốt ở cơ sở, bàn kế hoạch hoạt động mùa khô, đưa được tài liệu tuyên truyền, rải bướm tin và truyền đơn theo từng đợt, mua được hàng và rút được 5 nòng cốt ra huấn luyện. Chúng tôi tổ chức huấn luyện cho 5 anh em này và bàn kế hoạch đưa họ về hoạt động. Lớp học này mở bốn ngày, kết quả tốt, anh em phấn khởi lắm. Lớp này về, lớp khác lại đến. Cả đợt chúng tôi làm được 4 lớp. Đây là nòng cốt các tổ Mặt trận của thành phố, là cái vốn cho phong trào cách mạng ở Pắkxê sau này.
Sau gần một tháng, chúng tôi xuống Lào Ngam. Ở đây đã được giải phóng. Vũ khí H12 của Liên Xô bắn cháy rụi đồn địch. Dân khen vũ khí Pathét Lào đặc biệt, còn địch sợ lắm, thằng nào sống sót đều tháo chạy về Xalavan. Bên ta cũng hy sinh đáng kể. Chúng tôi chia nhau vào các làng thăm nhân dân, cán bộ, tuyên truyền về thắng lợi và động viên họ sản xuất, công tác. Chúng tôi hướng dẫn cán bộ địa phương củng cố và mở rộng Mặt trận, thành lập và củng cố chính quyền, thành lập và phát triển dân quân du kích, tăng cường bố phòng phòng chống địch trở lại. Chúng tôi đi một vùng rộng lớn trên cao nguyên Bôlôven. Đất ba zan màu mỡ, vừa tốt lúa vừa tốt cà phê. Nhân dân rất phấn khởi. Ở đây có ông già Huội Xết sau chống Pháp mất liên lạc với Đảng, hàng chục năm vẫn tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng. Hằng ngày, ông vẫn làm nhiệm vụ liên lạc, đưa tin, đưa cán bộ từ vùng này sang vùng khác cho đến khi cán bộ và bộ đội trở lại.
Sau đó chúng tôi về tỉnh bàn với anh Phước, Tổ trưởng tổ chuyên gia Xalavan. Đề nghị anh bàn với Bạn mở cuộc hội nghị bàn công tác địch hậu. Tỉnh lo triệu tập và vật chất cho hội nghị. Còn nội dung tôi giúp đồng chí Khăm Phủi chuẩn bị. Hội nghị có báo tình hình mùa khô, ta thắng địch thua ở địa bàn trong tỉnh. Công tác định hậu mà chủ yếu là ở thành phố Pắkxê đang lên, và rút ra kết luận là: Nhân dân vùng địch không thờ ơ với cách mạng. Họ đang chờ ta đến. Vùng giải phóng khí thế đang lên nhưng thiếu cán bộ thúc đẩy. Kẻ địch có kiềm chế nhân dân, nhưng còn nhiều kẽ hở mà ta có thể lợi dụng được. Phong trào cách mạng nói chung và phong trào địch hậu có lên hay không là do khâu cán bộ quyết định. Cán bộ có đi công tác được hay không một phần do khâu công tác tư tưởng, xác định trách nhiệm cho cán bộ, phần nữa do vướng mắc gia đình. Đề nghị Tỉnh vận động nhân dân giúp đỡ gia đình cán bộ, làm sao để ruộng rẫy họ được sản xuất, vợ con họ có gì khó khăn có người giúp đỡ. Có như vậy họ mới yên tâm ra đi. Hội nghị học tập 5 ngày có gần 30 người về dự. Đồng chí Khăm Phủi và Xỉ Phương chỉ đạo và hướng dẫn hội nghị. Kết quả đạt yêu cầu đề ra.
Sau đó chúng tôi về khu. Được biết trong 4 tháng chúng tôi đi, cơ quan đã ba lần di chuyển. Lần thứ nhất từ Nalay chuyển lên “Nabun”. Làm nhà chưa xong đã có lệnh chuyển lên Kẹo Mên cho kín đáo. Đến Kẹo Mên làm nhà chưa xong thì biệt kích địch đi lạc vào. Thủ trưởng Phân đoàn quyết định chuyển xuống Nam đường 9 để cuối năm chuyển xuống Xalavan cho gần Mặt trận. Về Vông Xỉ Kẹo, sau khi sơ kết chuyến đi công tác tiền phương báo cáo Phân đoàn và Khu ủy xong, cả ta và Bạn lao vào làm nhà, đào hầm, vác gạo, ổn định chỗ ở.
Ở đây tôi báo cáo với đồng chí Ngô Thế Sơn (Trưởng chuyên gia) và đồng chí Khăm Xúc, Bí thư Khu ủy về Vithulệt. Tôi đã gần anh ta gần một năm, tìm hiểu, giáo dục anh ta và nhận ra rằng: Anh ta có trình độ văn hóa khá, tiếng Pháp giỏi và có biết tiếng Anh, còn chính trị thì non nớt, thỉnh thoảng anh ta có liên lạc với Viêng Chăn. Anh là người của Viêng Chăn cử vào ta để nắm tình hình, tìm cách chui sâu, leo cao để “cất vó lớn”. Ta ở đây là tiền phương, khó giữ bí mật và đảm bảo an toàn. Tôi đề nghị Khu báo cáo và đưa anh ta về trung ương để Trung ương thẩm tra và có chủ trương xử lý. Hai anh đều nhất trí với ý kiến tôi và hứa sẽ thực hiện như vậy.
Giữa tháng 8/1969, tôi xuống trường Đảng xem anh em học tập kết quả ra sao. Từ cơ quan Khu đi ngược lên hướng Bắc ba ngày đường. Ngày thứ 3 bị địch bắn phá suốt ngày. Chạy, núp, rồi lại chạy. Không may tôi bị một gốc cây trên rẫy cũ chọc vào chân chảy máu và sưng vù lên. Tôi cố gắng đến trường thì vừa tối. Anh Kế, chuyên gia ở đó nhờ y tá đến băng bó cho tôi. Ở đây vài tuần tôi nghe anh em báo cáo tình hình nhà trường, tình hình học viên và kết quả học tập. Nhà trường cũng làm nửa nổi nửa chìm, cũng hầm chữ A và bếp Hoàng Cầm để tránh khói. Lãnh đạo trường có anh Phim, Hiệu trưởng, anh Chăn Thon và Bun Lắt (ở Trung ương về) làm Hiệu phó. Giáo viên có mười người và có một số vấn đề các đồng chí đề nghị tôi nói thêm. Về ăn uống, nhà trường rất khó khăn vì Bạn không có chợ ở nông thôn. Dân ở xa nhau, mỗi bản mươi mười lăm nóc nhà, có chăn nuôi lợn gà, chỉ đủ họ cúng là hết. Nhà trường phải trồng rau, nuôi gà lợn và ăn rau rừng nữa mới tạm đủ, mặc dù bạn rất ít ăn rau.
Lúc ở đây, tôi nghe tin Bác mất. Lòng bồi hồi xúc động và tiếc thương Bác. Các đồng chí Bạn đến chia buồn với chúng tôi và hỏi thăm Bác ốm sao lại mất. Họ tưởng tôi biết tất cả! Tôi hướng dẫn anh em theo dõi đài Hà Nội để làm lễ truy điệu Bác. Nhiều đồng chí lo lắng cho cuộc kháng chiến đang dở dang. Tôi động viên anh em tin vào Trung ương và hãy biến thương đau thành hành động cách mạng.
Ngày 5/9/1969 tôi về lại Khu ở Vông Xỉ Kẹo. Cũng đi mất ba ngày như lúc đến. Xế ngày thứ 3 tôi tới vùng Mường Phìn. Vượt qua đường 9, qua Xê Chun, leo đến đỉnh dốc để xuống bên kia là Vông Xỉ Kẹo thì thấy địch từ Pha Lan đến Mường Phìn. Chúng cắt đứt đường 9 và Sê Chun chặn hành lang Nam Bắc của ta. Ở trên dốc nhìn xuống, tôi thấy chúng đi và bắn súng đì đoành. Về đến cơ quan nghe anh em nói chuẩn bị chuyển về bắc đường 9, vùng Na Tơ năm xưa. Sáng hôm sau (ngày 9/9) ta và bạn làm lễ truy điệu Bác. Làm các nghi thức xong thì cũng nghe bài truy điệu Bác của Trung ương ta phát từ Hà Nội. Qua giọng đọc của đồng chí Lê Duẩn xúc động nghẹn ngào, có lúc như nấc lên làm cả Bạn và ta đều rơi lệ. Sau đó mỗi người chuẩn bị thêm để 1 giờ chiều hành quân về vùng cũ.
Đường 9 và sông Sê Chun đã bị địch chặn rồi, ta phải liên hệ với tuyến, nhờ đường đi lên. Đoàn ra đi quân trang, quân dụng nặng nề lắm. Có lúc qua suối, qua sông, không có thuyền, anh em bỏ đồ đoàn vào tấm ni lông, buộc lại rồi bơi đẩy qua sông. Có người bơi khá thì qua nhanh. Anh nào bơi kém phải nhờ người đẩy hộ. Rất may là không có phụ nữ. Từ đó về đến Na Tơ mất đứt 6 tuần lễ. Đường dốc trơn trượt. Anh em nhớ mãi “dốc Nguyễn Chí Thanh”, vừa cao lại vừa dài. Có đồng chí ốm không ăn được cũng cố gắng theo anh em. Khi đến nơi thì Bạn đã đến rồi, vì Bạn nhẹ và đi theo đường dân chỉ, có 10 ngày đến nơi.
Về chỗ mới trước tiên cũng là đào hầm, làm nhà, vác gạo. Các đồng chí lãnh đạo của Bạn và ta thì họp bàn chuẩn bị kế hoạch mùa khô 1969-1970. Mùa khô là mùa hoạt động, cả ta và địch đều dồn sức cho mùa này. Nhà cửa vừa làm xong thì đến Tết Nguyên đán. Tết này anh em được gói bánh chưng. Có thịt lợn, có kẹo, mứt, rượu làm cái tết thêm vui vẻ. Tết này có tổ chức văn nghệ, có ra tờ báo tường, có hát chèo, hát bài chòi và ca vọng cổ. Có một số tiết mục được giải thưởng. Ta mời Bạn sang vui Tết và mừng thắng lợi.
Ngán nhất là phải đi vác gạo. Mỗi tháng vác một lần, 25 cân. Người nào khỏe vác nhiều hơn nữa. Mỗi chuyến vác mất 5 ngày. Hai ngày rưỡi đi, hai ngày rưỡi về. Giữa ngày thứ 3 vào kho giành gạo với B52. Cứ ta đến lấy, rồi đi độ 4 cây số thì B52 đến thả bom hủy diệt. Cũng may nhờ ở trên thông báo trước tọa độ và giờ máy bay đến thả bom, ta mới biết mà né tránh.
Mùa khô này chúng tôi đi Khăm Muộn. Từ cơ quan Khu đi tỉnh mất ba ngày. Chuyên gia ta ở đó có anh Trần Đống, người Thái Bình làm tổ trưởng, có anh Lê Minh Tân phụ trách công tác tuyên huấn và một số anh em khác. Chúng tôi gặp anh Đống. Anh dễ tính và cởi mở. Anh kể qua tình hình Khăm Muộn và đề nghị anh Tân báo cáo tình hình, hướng dẫn chúng tôi đi xuống cơ sở. Anh Tân và chúng tôi hợp tính nhau nên bàn kế hoạch đi cơ sở rất thuận lợi. Các đồng chí ở Khăm Muộn đưa chúng tôi đi cơ sở. Phần lớn nhân dân các vùng đều làm lán ở chân núi. Hễ máy bay đến thì rút vào hang. Khăm Muộn rất nhiều hang. Có một hang ở phía Bắc đường 12 rất dài và nhiều đoạn rộng. Chỗ rộng có thể ngủ được một tiểu đoàn. Từ cửa hang bên này sang cửa hang bên kia đi mất một giờ. Ở đoạn đầu hang phía đường 12, có một chỗ gió độc. Hai chuyên gia ta đã hy sinh ở đó. Đoạn này anh em dựng 3 giường, cả hai lần người nằm giường giữa đều bị. Dân cho là tại ma làm. Nhưng xét về khoa học thì do bị gió lùa. Những đồng chí bị huyết áp cao hay yếu tim gặp gió là bị thôi.
Cũng ở Khăm Muộn có lớp văn hóa cấp I mở ngoài rừng, dưới bóng cây. Bàn ghế đều tạm bợ. Hễ địch bắn chỗ này thì xách chạy chỗ khác. Cô giáo là Nàng Xỉ Vi Lay vui tính, nhiệt tình, học sinh rất quí mến cô. Lớp học này ở gần một bản phía Nam đường 12. Chúng tôi ghé thăm chính quyền và Mặt trận hai huyện Lằng Khằng và Nahỏm, nghe bạn báo cáo tình hình và trao đổi với họ những vấn đề nóng bỏng. Chúng tôi muốn đi Mường Mahaxây nhưng điều kiện không cho phép. Chúng tôi về tỉnh thăm Mặt trận và Ủy ban nhân dân tỉnh. Ở đây tôi gặp ông Thăm ma Xỉng người trung lập, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Ông vui tính, khiêm tốn và có kiến thức. Ông cho chúng tôi ăn “lạp cá” và tổ chức vui múa lăm vông với chúng tôi. Sau đó đi thăm nhân dân, thăm các vị sư sãi trong khu vực sơ tán này. Đến đâu cũng nghe bà con nói lên quyết tâm của mình: “Nguyện đoàn kết với Việt Nam kháng chiến cho đến ngày thắng lợi”…
Tháng 9 năm 1970, Hà Nội có điện gọi tôi về đi chữa bệnh. Trước khi ra về, tôi ngồi cùng anh em chuyên gia trong tổ điểm xem gần ba năm đã giúp bạn được gì. Qua ba năm chúng tôi đã giúp ngành Tuyên huấn Khu của Bạn xây dựng được bộ máy, xác định được việc làm cho từng người. Đồng chí Trưởng ban đã khái quát được nhiệm vụ. Đã soạn tiếp và chỉnh lý bộ tài liệu dạy ở Trường Đảng khu và Trường đã mở 10 lớp học, tổ chức cho 300 lượt cán bộ về học; đã đi nắm tình hình và thúc đẩy phong trào ở hai tỉnh Savanakhet, Khăm Muộn; đã đi phục vụ chiến dịch mùa khô năm 1969, phát huy thắng lợi quân sự thúc đẩy cơ sở chính trị và đẩy phong trào cách mạng ở thị xã Pạc xê lên; đã giúp Bạn mở hội nghị bàn về địch hậu ở Xaravăn; đã theo dõi, tìm hiểu và nhận ra một trí thức Viêng Chăn do phái hữu đẩy vào ta và đề xuất phương hướng giải quyết. Chúng tôi đã thực hiện theo hai phương châm giúp Bạn là: “Được lòng, được việc, được ngay con người” (cán bộ trưởng thành dần lên) và “Công việc của Bạn phải do bạn tự quyết định”.
Xong mọi việc trên, tôi sang báo cáo và chào các đồng chí Khu ủy Bạn, chào đồng chí Bun Thà và anh em cơ quan Tuyên huấn. Bạn mở tiệc tiễn tôi. Tuy vật chất đơn sơ, nhưng tấm lòng Bạn đối với tôi rất đầm ấm. Trong lời phát biểu của đồng chí Bun Thà Trưởng ban Tuyên huấn, có đoạn: “ Cảm ơn đồng chí Bun Ma đã giúp đỡ Ban Tuyên huấn Khu hình thành bộ máy và đi những bước đi ban đầu, chỉ mong sau khi chữa khỏi bệnh đồng chí hãy trở lại giúp đỡ chúng tôi”. Tôi cảm ơn lại Bạn. Chúng tôi bắt tay nhau mà lòng bồi hồi xúc động, nghẹn ngào, lưu luyến đến rơi lệ.
Nguyễn Cận kể, Sông Cầu ghi
Nguyễn Cận – nguyên là chuyên gia giúp cách mạng Lào.