Lời tác giả
Đây là câu chuyện có thật xảy ra từ năm 1967. Suốt mấy chục năm chúng tôi giấu kín chẳng dám nói với ai, vì ”mang tội tầy đình”. Nay hai mẹ Tổ Quốc mở lượng hải hà, xá tội cho những đứa con trẻ người non dạ ngày xưa, tôi mới dám kể ra cái tội của thằng bạn của tôi.
Những nhân vật chính trong truyện là những con người thật. Họ là những người dân ở Bản Na Mon, Huyện Mường Khăm, Tỉnh Xiêng – Khoảng, Lào. Họ là những đồng đội của tôi ở Đại đội 3, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 866, Quân tình nguyện Việt Na. Giờ lớp lính ngày đó chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Tuy vậy lớp lính những năm tháng đầu ngày thành lập cũng đã cống hiến hết mình, máu xương bao đồng chí đã tạo nên những chiến công không nhỏ, và thực sự đã làm rạng rỡ tên tuổi trung đoàn 866 – hai lần anh hùng trong đội hình Sư đoàn 31, Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên).
Tôi không phải là nhà văn, nhà báo, chỉ là người lính chiến đã nghỉ hưu. Viết lại chuyện xưa, lời văn mộc mạc, chắc chắn có nhiều thiếu sót, mong bạn đọc lượng thứ. Mấy ông đồng đội già – những người trong cuộc, khi đọc truyện này xin đừng tức giận mà huyết áp tăng cao, có hại cho sức khỏe đấy nhé!
Hoàng Đạo
Câu chuyện tôi kể sau đây xảy ra cách đây đã 45 năm. Những nhân vật chính trong truyện nay cũng đã trên dưới 70 tuổi rồi. Bây giờ họ ở đâu, cuộc sống của họ ra sao, thực tình tôi không rõ. Viết lại chuyện này âu cũng là lời xin lỗi muộn màng với các bạn. Thật lòng, ngay từ những ngày ấy, tất cả tiểu đội chúng tôi ai cũng thương hai bạn. Mối tình của hai bạn thật đẹp, cao cả và chân thành. Nhưng ở vào thời điểm thật éo le, khiến cho các bạn quá khổ nếu như không muốn nói là bất hạnh(!)
Cựu chiến binh Đào Hạng – nhân chứng bài viết đang kể chuyện chiến trường Lào thời Kháng chiến chống Mỹ trong buổi nói chuyện với các học sinh – sinh viên Lào đang học tập tại Việt Nam.
Và điều này nữa, thằng cháu kháu khỉnh ấy bây giờ sống ra sao? Chắc cháu đã có vợ con đàng hoàng rồi nhỉ? Cháu đang ở đâu? Đã có ai kể cho cháu nghe về bố cháu chưa? Cháu có biết suýt nữa mẹ cháu bị xử bắn vì có mang cháu không?
Thưa bạn đọc!
Vào đầu năm 1967, đơn vị chúng tôi vào giải phóng Bản Thà. Một địa bàn quan trọng án ngữ ngã ba đường 6 và đường 7, cách Bản Ban khoảng một giờ đi bộ. Đại đội tôi có nhiệm vụ chốt giữ Bản Thà, bảo vệ an toàn cho đơn vị công binh 217 làm đường 6 nối liền với Sầm Nưa (Hủa Phăn).
Dân Bản Thà và mấy bản xung quanh đã bị địch ép vào khu Phu Sa Bốt – Nậm Chạ. Một số ta vận động đưa ra Bản Ban rồi sơ tán về Mường Xén – Nghệ An. Bản Na Mon cách Bản Thà một ngày đường thì dân vẫn ở lại. Đây là bản người Lào Thâng, bản có 22 nóc nhà sàn. Thanh niên trai tráng hầu hết bị địch ép đi lính làm phỉ, ở lại toàn ông bà già, đàn bà, trẻ con. Tiểu đội tôi được cử vào bản này làm công tác dân vận. Nhiệm vụ chính là tuyên truyền các chính sách của Neo Lào Hắc Xạt: đoàn kết dân tộc chống đế quốc Mỹ, không nghe theo lời dụ dỗ của kẻ xấu, không cho con em đi làm phỉ; giải thích cho bà con hiểu bộ đội Việt Nam sang là để giúp nhân dân Lào chống Mỹ cứu nước, bảo vệ bản mường. Đồng thời tiểu đội có nhiệm vụ theo dõi các di biến động của địch khu vực xung quanh, sẵn sàng chiến đấu khi có tình huống xảy ra, kiên quyết giữ dân, giữ bản không để địch lợi dụng lôi kéo dân theo chúng.
*(Bản Na Mon thuộc Huyện Mường Khăm – Tỉnh Xiêng Khoảng)
Tiểu đội lúc này có 6 đồng chí: Lò Văn Pản, tiểu đội trưởng là người dân tộc Thái quê Than Uyên – Sơn La; Lò Văn Lay quê Phù Yên; Bền và Phẳng quê Kim Bôi – Hoà Bình; tôi và Công quê Hải Hưng. Làm công tác dân vận quan trọng nhất là phải biết tiếng Lào. Đại đội chọn tiểu đội tôi là vì có 2 đồng chí người Thái nói tiếng Lào rất tốt. Nhiều tập tục người Lào cũng gần giống người Thái Tây Bắc ta. Cho nên chỉ trong thời gian ngắn ở cùng dân bản, chúng tôi đã nói khá tốt tiếng Lào. Hàng ngày chúng tôi chia tổ, cùng với các Pho Me (Bố Mẹ) đi nương, trồng ngô, trồng sắn, làm cỏ rẫy, đi mò cá suối, săn thú rừng, lấy mật ong, bẫy chim vv… Tiểu đội bố trí ở trong 3 nhà dân gần nhau. Chúng tôi tự nấu ăn. Đêm, 3 tổ thay nhau canh gác. Lương thực, thực phẩm chủ yếu là gạo và muối gùi từ đại đội ở Bản Thà vào. Đường Từ Bản Na Mon xuôi xuống Bản Thà có một con suối chảy dọc theo đường mòn như rắn bò, chúng tôi phải vượt qua con suối đó đến 30 lần. Con suối không lớn, vào mùa khô nước ngang đầu gối, lội qua dễ dàng. Nhưng mùa mưa nước chảy siết, nhiều khi có lũ quét, đi lại rất khó khăn, nguy hiểm.
Sau một thời gian ở bản, chúng tôi đã vận động được hai gia đình gọi con đi phỉ trở về. Chúng tôi động viên hai anh này tiếp tục vận động các anh bạn khác về, giao cho các anh vào tổ bảo vệ bản, đồng thời theo dõi, quản lý chặt chẽ mọi hoạt động của họ. Bà con đã coi chúng tôi như người thân, không như lúc mới vào, nhà nào cũng treo cành lá tươi ở cửa, cấm không cho chúng tôi vào nhà.
Trong bản có 5-6 cô gái tuổi 17-18 khá xinh xắn, các cô rất quý bộ đội Việt Nam. Họ hay xì xào bàn tán rồi cười rúc rích. Tôi cảm thấy cô My hay để ý đến Bền. Hai người rất quan tâm đến nhau, dành cho nhau những ánh mắt rất lạ, những cái nhìn trộm và hay cười tủm tỉm với nhau. Thời ấy bọn tôi 19 đôi mươi rất ngây thơ trong chuyện yêu đương. Nhưng mấy cậu người Mường, người Thái thì đã khá sành sỏi, bọn họ biết yêu sớm hơn chúng tôi.
Ở Na Mon được 6-7 tháng, anh em chúng tôi gần như thành người Lào: da đen sạm, hút thuốc rê khét lẹt, giầy vải đã rách hết, chúng tôi đi dép cao su và… đi chân đất. Các loại chim, sóc bẫy được là nướng ăn ngon lành. Người Lào kiêng không ăn thịt chó. Dân bản nuôi chó đến khi con chó già chết thì làm ma, chôn hẳn hoi. Cánh bộ đội ta lại rất thích ăn thịt chó. Anh em nghĩ ra cách đổi muối lấy chó, gà, vịt. Con chó khoảng 12-13 kg đổi 4-5kg muối; con gà, con vịt đổi 1-2 kg muối. Khi làm thịt chó phải mang ra suối xa bản, ăn tại đó, không được mang về bản. Dần dần chúng tôi đã mời được già bản và mấy ông trung trung tuổi ra suối cùng ăn thịt chó. Vài lần như vậy rồi quen, các Pho (Bố) xem ra cũng khoái khẩu.
Buổi sáng hôm ấy như mọi ngày, một bà mẹ ngoài 50 tuổi nói nhỏ với Pản:
– Con My nó có con với bộ đội Việt Nam rồi, già bản sắp bắt nó đấy. Bọn tôi vô tâm quá chẳng hề biết gì. Chúng tôi thật sự hoảng. Anh em bàn nhau phải hỏi mấy cô gái xem My có với ai. Cô bạn thân của My rỉ tai Pản:
– My nó có với anh Bền đấy. Bộ đội đưa anh Bền đi ngay, chứ để ở đây già bản bắn chết.
Ngày ấy bộ đội yêu đương là cấm kỵ. Mà lại yêu con gái Lào thì không biết sẽ như thế nào. Chúng tôi lo cho Bền lắm.
Đêm ấy cả tiểu đội không ngủ bàn cách giải quyết. Sáng sớm hôm sau Bền cùng 2 đồng chí về đại đội lấy gạo như mọi khi. Dân thì không biết nhưng chúng tôi thì coi đây là lần Bền ra đi không có ngày trở lại. Anh đã báo cáo với thủ trưởng đại đội, đại đội đã kỷ luật Bền, chuyển Bền sang trung đội khác.
Những ngày sau đó là những ngày kinh hoàng với 5 anh em chúng tôi.
Cựu chiến binh Đào Hạng (ngoài cùng bên phải) Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam – Lào tỉnh Hải Dương trao quà cho học sinh – sinh viên Lào đang học tập tại Việt Nam
Một sáng mùa đông, trời xám ngắt, rét cắt da, bà con kéo đến tập trung tại một vạt đất trống đầu bản. Tất cả chừng hơn 70 người già trẻ, gái, trai. Người lớn nét mặt căng thẳng, họ thì thầm to nhỏ với nhau về sự kiện có một không hai từ trước đến nay này. Bố mẹ My buồn rười rượi, chúng tôi đã biết trước việc này, chia làm 2 tổ gác 2 đầu bản, chọn vị trí quan sát được ”phiên toà” xử cô My. Khi đã đông đủ, già bản đứng lên nói một tràng dài. Ông ta buộc tội My đã vi phạm quy định của bản, phải xử tội thật nặng. Bỗng ông chú của My đứng phắt dậy, mặt đỏ gay, hai tay lăm lăm khẩu súng kíp, ông chĩa thẳng súng vào người My quát lớn :
– Mày có con với ai phải khai ra, nếu không khai tao bắn chết!
Bọn tôi nghe rất rõ tiếng ông, mấy anh em nhìn nhau lo lắng cho My. Không khí căng như dây đàn. My vẫn ngồi không nhúc nhích. Bỗng cô bạn của My đứng dậy nói:
– Cháu biết nó có với anh bộ đội Việt Nam, anh ấy đã đi rồi không về bản nữa.
Cô gái ngồi xuống cạnh My. My gục đầu vào bạn gái nức nở. Trong lòng tôi trào dâng nỗi thương My và giận Bền. Công lầm bầm:
– Thằng Bền mày làm khổ con My, làm khổ chúng tao.
Già bản cho người ra mời bộ đội vào. Lúc này chúng tôi mới được tham gia phiên xử. Pản và Công đại diện vào báo cáo và nhận khuyết điểm với bà con. Bình thường, Pản tính lầm lì, ít nói, thế mà hôm nay cậu ta nói lưu loát:
– Thưa Già bản, thưa bà con…
– Chúng con đều còn rất trẻ, cũng giống như các con của Pho – Me. Sống bên nhau lâu ngày rồi yêu nhau cũng là lẽ bình thường. My đã có con với đồng chí Bền của chúng con thì đồng chí Bền đã là con của bản rồi. Con của My là cháu của bản rồi. Xin bà con dân bản tha thứ…
Già bản với ông thầy mo bàn gì với nhau, rồi già bản nói:
– Ừ, dân bản không ghét bộ đội Việt Nam đâu, đứa con trong bụng con My là con chung của người Việt Nam và người Lào ta. Nhưng mà bộ đội phải trả cho dân bản rượu, thịt trâu với muối đấy. Bản ta quy định thế.
Ôi, chúng tôi thở phào như trút được gánh nặng nghìn cân! Câu nói: ”Con của My là con của người Việt và người Lào” của ông già bản khiến chúng tôi cảm động quá.
Mấy anh em rỉ tai nhau đúng như truyện ăn khoán thị Mầu. Có điều ở Việt Nam Phú Ông phải phạt, còn ở Bản Na Mon, chúng tôi chịu phạt.
Sau một hồi bàn tính, già bản nói:
– Bộ đội phải cho bản ta 2 tạ muối, 2 con trâu, 1 chum rượu để cả bản cùng ăn uống. Mười ngày nữa phải có đủ.
Phiên toà kết thúc lúc gần trưa. Bà con ra về, hả hê cười nói, cũng có người lo lắng cho chúng tôi. Còn My thì vẫn nức nở khóc. Chúng tôi bàn tính: 2 tạ muối với chúng tôi không khó, nhưng lại là khối lượng lớn hàng đặc biệt quý hiếm đối với dân Lào. Ngược lại, trâu và rượu thực sự như đánh đố. Chúng tôi làm sao có trâu có rượu. Chúng tôi nhanh chóng báo cáo đại đội. Hậu cần Tiểu đoàn, Trung đoàn xuống tận đại đội giúp giải quyết. Một phương án tối ưu được nêu ra: đề nghị với dân bản trâu và rượu quy ra muối để trả hết bằng muối. Sau đó báo cáo với già bản, không ngờ già bản đồng ý ngay. Tất cả là 400 kg muối.
Đại đội huy động lực lượng gùi muối vào bản. Dân bản cử người nhận muối. Trung đoàn còn tặng thêm dân bản ít thuốc chống sốt rét, thuốc đi ngoài và đường, sữa bột. Bà con vui lắm.
***
Câu chuyện nếu dừng ở đây thì xem ra chưa trọn vẹn. Điều tôi cần kể lại là đoạn sau này:
Xuân Mậu thân 1968, chúng tôi ăn Tết tại Bản Na Mon. Cũng có bánh chưng, thịt, cá hộp, chè, thuốc lá, rượu chanh, bánh kẹo… Chúng tôi mời đại diện các gia đình trong bản đến chung vui. Tình cảm bộ đội tình nguyện Việt Nam với dân bản thật tốt đẹp. My đã sinh cháu trai kháu khỉnh. Chúng tôi dành dụm một phần tiêu chuẩn đường sữa cho mẹ con My, coi My như em gái, con trai My như con cháu ruột thịt của mình.
Sau Tết khoảng một tháng, chúng tôi nhận nhiệm vụ mới, kết thúc nhiệm vụ dân vận ở Bản Na Mon. Chúng tôi chia tay bà con, chia tay My trong bịn rịn, hẹn ngày trở lại. Nhiều bà mẹ, ông bố đã khóc tiễn chúng tôi.
Đơn vị tôi tiếp tục hành quân qua Nam thị xã Xiêng Khoảng vào đường số 4, đánh Tha Thơm – Tha Viêng. Những trận chiến đấu liên tiếp và ngày càng ác liệt. Trong trận đánh Na Đi, Na Kẹo – Bền bị thương gẫy đùi, vết thương khá nặng, anh được đưa về phía sau cứu chữa. Do đường vận chuyển xa, phải vượt qua sông Nậm Nhiếp chảy siết, vết thương của Bền bị nhiễm trùng. Chúng tôi được tin từ viện 952 báo về Bền phải tháo khớp háng không biết có qua được không. Những năm tháng ấy, sự mất mát đồng đội sau mỗi trận đánh là không thể tránh khỏi. Tất cả chúng tôi quen dần với sự mất mát đó và sẵn sàng đón nhận đến lượt mình!
Mùa mưa năm 1969, địch mở chiến dịch Cù Kiệt (Rửa hận) quy mô lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh ở Lào, nhằm chiếm lại Cánh Đồng Chum Xiêng Khoảng. Chúng sử dụng hơn 37 tiểu đoàn bộ binh, cùng với lính Thái Lan, huy động hàng trăm máy bay, có cả B57 – B52, hàng trăm khẩu pháo hạng nặng và hàng chục xe tăng… oanh tạc rải thảm khu trung tâm Cánh Đồng Chum, các điểm cao khu trung gian, phá hủy hệ thống kho tàng của ta. Chúng bắn phá hủy diệt các làng bản của dân.
Để đảm bảo an toàn cho nhân dân, trên chủ trương nhanh chóng đưa dân sơ tán về Nghệ An. Đơn vị chúng tôi được giao nhiệm vụ bảo vệ dân sơ tán. Thật tình cờ, trong đoàn người sơ tán ấy có bà con bản Na Mon thân thương của chúng tôi. Gặp lại bà con thật mừng vui, xúc động, nhưng cũng thật đau lòng. Mặc dù ta đã dùng ô tô chở bà con từ Bản Ban nhưng vì quá gấp, bà con chẳng mang theo được gì ngoài mấy thứ đồ dùng thiết yếu. Đoàn người sơ tán toàn ông bà già, phụ nữ, trẻ con. Nhìn nheo nhóc mà xót xa. Nhưng điều làm chúng tôi vô cùng ngạc nhiên đến sửng sốt là không có mẹ con My trong đoàn người sơ tán. Mẹ cô kể lại rằng:
– Từ ngày sinh con, nó cứ nhớ thằng Bền, đứng ngồi không yên. Nó bảo thiếu thằng Bền nó không sống được. Cách đây một tháng nó địu con đi về Việt Nam tìm thằng Bền rồi. Nó biết quê thằng Bền ở Hòa Bình. Nó về Hòa Bình đấy. Nó viết thư lại cho bố mẹ thế. Không biết giờ mẹ con nó ra sao. Nghe chuyện ấy chúng tôi thực sự kinh ngạc, khâm phục cô gái Lào bé nhỏ mà nghị lực phi thường đến thế.
Tôi thương Bền, thương mẹ con My. Bom đạn ngút trời thế này liệu có an toàn không? Tiếng tăm không biết, về Việt Nam My đi thế nào đây! Cuộc tìm ”chồng” lịch sử này liệu Đất Trời có thương mà cho họ gặp được nhau không? Chúng tôi cứ băn khoan lo lắng mãi.
***
Cũng suốt từ ngày ấy chúng tôi không gặp lại bà con bản Na Mon. Chiến sự vẫn diễn ra ác liệt cho đến tận năm 1975, nước Lào hoàn toàn sạch bóng quân thù. Đơn vị chúng tôi – Trung đoàn 866 Quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế vẻ vang trên đất Lào anh em, trở về Tổ Quốc thân yêu. Những người lính đại đội 3 – tiểu đoàn 7 năm xưa nay đã là ông nội, ông ngoại. Hàng năm vẫn tổ chức họp mặt nhân ngày truyền thống của Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào 30/10, theo từng khu vực. Gặp lại nhau mừng rơi nước mắt. Biết bao nhiêu kỷ niệm lại ùa về và trong những kỷ niệm đó, câu chuyện về mối tình giữa cô gái Lào với anh bộ đội Việt Nam – Mối tình giữa My và Bền thì không ai quên. Một thiên tình sử đầy sóng gió và nước mắt, tưởng như chỉ có trong tiểu thuyết mà lại là có thật giữa cuộc đời này.
My và Bền, các bạn có gặp được nhau không? Cuộc sống bây giờ ra sao? Con cháu thế nào tin cho chúng mình biết đi.
Nếu chưa gặp được nhau thì hãy gửi thư cho chương trình ”Như chưa hề có cuộc chia ly” của Đài truyền hình Việt Nam, biết đâu chị Thu Uyên và các cộng sự giúp các bạn gặp được nhau.
Cầu chúc cho các bạn thật nhiều may mắn.
Hoàng Đạo