Thời kháng chiếng chống pháp, các cơ quan Đảng của địa phương vùng Hạ Lào đều phải hoạt động bí mật. Giữa năm 1955 tôi được giao nhiệm vụ làm chuyên gia giúp tỉnh ủy Champaxac. Từ cơ quan Khu ủy Hạ Lào tại tỉnh Xaravan tôi theo đường giao liên bí mật qua từng bản đã bố trí trước để về Champaxac.
Trên đường đến Tame Xẳng Thoong, tôi gặp Phò Vạ, ủy viên mặt trận tỉnh đang trên đường về cơ quan khu. Sợ tôi đi theo đường dây qua từng bản không kịp về đến cơ quan bí mật của huyện ủy Pạc Xoong trước khi trời tối nên Phò Vạ đã cho đồng chí bảo vệ dẫn tôi về thẳng Pạc Xoong, không qua liên lạc cơ sở từng bản.
Năm giờ chiều, đồng chí bảo vệ đưa tôi đến Phạ Nuỗn Nhày giao tôi cho một cụ già đang giữ nương nhờ đưa tôi đến huyện ủy rồi vội quay lại chỗ Phò Vạ.
Tôi ngồi ven rừng chờ các đồng chí huyện ủy và anh Tấn là chuyên gia ta giúp huyện. Thật không ngờ, hôm ấy các đồng chí đều xuống cơ sở không còn ai ở nhà. Ông cụ báo cho cơ sở bản Phạ Nuôn Nhày ra đón, sau mới biết cụ bị điếc chẳng nghe được gì đồng chí bảo vệ nói, chỉ biết tôi là cán bộ nên cứ nhận!
Trời nhá nhem tối mới thấy mấy người ra gặp, vì không biết tôi lại không có giới thiệu rõ ràng trong khi tôi đến không theo con đường giao liên bí mật từ bản này chuyển sang bản khác như thông lệ. Hỏi cụ già, ông cụ cũng chẳng biết gì, lẽ đương nhiên họ nghi tôi là người của địch giả danh chuyên gia Việt Nam. Cũng vì lẽ đó, họ không tin những lời tôi tự giới thiệu về mình. Họ chỉ nói : “Quân Việt Minh và Pathet Lào đều đã về Sầm Nưa, ở đây không còn ai. Đây là vùng kiểm soát của chính quyền Vương Quốc Lào. Chúng tao là dân của Vương Quốc, mày là Việt Minh thì chúng tao bắt giao cho quan lớn !”. Tôi giải thích thế nào họ cũng không nghe, mà tôi thì chẳng có một thứ giấy tờ hay cơ sở nào để họ tin.
Dân bản kéo ra lúc một đông, họ bố trí canh gác cẩn thận và bàn tán sôi nổi nhưng không phải bằng tiếng Lào mà chỉ nói tiếng bộ tộc La Ven nên tôi chẳng hiểu gì.
Đến 8 giờ tối chưa có hạt cơm nào vào bụng nhưng nỗi lo làm tôi không còn thấy đói. Càng về sau, dân bản hình như chia làm hai phái tranh cãi quyết liệt quanh đống lửa. Thi thoảng họ lại nhìn tôi rồi lục tung chiếc ba lô như để dò xét, tìm chứng cứ…
Cuối cùng tôi bỗng sực nhớ ra, ở vùng này còn có chị Bua, hình như chi không đi tập kết mà vẫn ở lại bám trụ theo lời kể của một chị ở cơ quan khu bộ. Chị Bua vốn thân quen với tôi từ 1950 khi tôi đang phụ trách cơ sở vùng căn cứ AtôPơ, tôi mừng quá liền đề nghị dân bản cho tôi được gặp chị, Mọi người đưa mắt nhìn nhau, một ông già nói :
– Xảo Bua là Itxala, nó đi theo Xithon lên Sầm Nưa rồi, chúng tao không còn liên hệ gì với nó nữa !
Tôi hết sức thất vọng, chẳng còn biết xoay sở ra sao, đành ngồi chờ phán quyết cuối cùng của dân bản. Liền sau đó tôi thấy mọi người giục một số thanh niên đi khuân về rất nhiều cúi, chất thành một đống to trước mặt tôi rồi đốt lên sáng rực cả góc rừng. Trời về đêm, trên cao nguyên Boloven độ cao hơn một nghìn mét, thời tiết lạnh mà người tôi nóng rực, mồ hôi chảy ròng ròng. Tôi không thể biết dân bản sẽ xử lý mình ra sao, trong lòng vô cùng lo lắng ! Bỗng từ trong đám đông một phụ nữ chạy vội ra ôm chầm lấy tôi rồi kêu to :
– Ôi ! Khăm Xỉ (tên Lào của tôi do một bà mẹ nuôi Lào đặt cho khi sang Atôpơ), cục vàng của chúng ta đây ! Đúng là người bên ta rồi bà con ơi ! Tí nữa thì nó chết oan rồi, may quá, trời phật ơi ! Khăm Xỉ ơi !
Bàng hoàng khi nhận ra chị Bua, tôi ôm đôi vai gầy đang rung lên của chị mà xúc động không nói nên lời, còn chị thì vẫn nức nở vì vui mừng, vì cảm động. Thì ra dân bản đốt lửa thật sáng để giúp chị từ xa có thể nhận ra tôi !
Mọi người lúc này đều ùa đến quanh hai chị em tôi, họ vỗ tay, cười nói râm ran, tôi chỉ nghe những từ : may quá ! phúc quá ! tốt quá rồi !…
Già bản giục mọi người chuẩn bị cơm nước cho tôi rồi kéo tôi ngồi cạnh đống lửa, ông ôm vai tôi lắc lắc, giọng cảm động :
– Thật phúc cho con mà cũng may cho dân bản ! Ta xin thay mặt mọi người nhận lỗi với con vì đã chưa tin con ngay, mong con thông cảm ! Người La Ven chúng ta phải cảnh giác bởi bọn địch cũng đã có lần đóng giả bộ đội Itxala để lừa chúng ta…Ban nãy có người cho rằng con là địch đóng giả nên có ý kiến đưa con lên đồn nộp, để lừa lại địch. Có người thì bảo nếu là địch thì cứ cho một mũi tên độc rồi vùi đi là êm…Nếu hôm nay không có Xảo Bua thì bản ta đã mắc tội lớn với Itxala rồi ! Thôi, con ăn cơm rồi đi nghỉ, sáng mai sẽ có người đưa đến gặp huyện ủy Xẻng Thoong (tên Lào của anh Tấn, chuyên gia giúp huyện Pạc Xoong). Cơm nước xong, già bản đưa tôi về nhà thu xếp chỗ ngủ. Suốt một ngày băng rừng, vượt suối, lại gặp cảnh ngộ trớ trêu, thần kinh căng như dây đàn, đến bây giờ tôi mới thấy toàn thân rã rời vì mệt mỏi. Tôi thiếp đi trong giấc ngủ, bên tai vẫn văng vẳng tiếng chị Bua :
– Ôi ! Khăm Xỉ, em tôi ! Cục vàng của chúng ta đây …
Năm 1997, sau 6 năm nghỉ hưu, Đảng bạn đề nghị tôi sang giúp một số việc, tôi có dịp trở lại Champaxac, nơi tôi đã từng công tác nhiều năm trong hai cuộc kháng chiến, cũng là nơi tôi có nhiều kỷ niệm sâu sắc về tình hữu nghị đặc biệt Việt-Lào. Lần trở lại này, tôi muốn tìm gặp chị Bua.
Kết thúc đợt công tác, theo đề nghị của tôi, tỉnh ủy đưa chị Bua đến Pakse gặp tôi. Chị đã già yếu đi nhiều nhưng vẫn còn minh mẫn. Chị òa khóc khi nhìn thấy tôi vì chị em tôi không ai dám nghĩ rằng sau gần nửa thế kỷ, còn được nhìn thấy mặt nhau. Chúng tôi mừng mừng, tủi tủi với bao xúc động về những kỷ niệm, những ngày tháng gian khổ ở vùng căn cứ tây nam Attopơ . Hai chị em hàn huyên suốt mấy tiếng đồng hồ mà cảm thấy vẫn chưa đủ. Để phần nào bày tỏ lòng biết ơn vô bờ bến với chị, tôi biếu chị một chút tiền, thuốc men và quà. Chị không nhận tiền, chỉ nhờ tôi mua cho một ít bánh kẹo để đem về cho trẻ nhỏ và bà con dân bản. Tôi cũng không quên báo cáo với tỉnh ủy về quá trình công tác của chị suốt tám năm kháng chiến chống Pháp mà tôi biết đồng thời đề nghị tỉnh ủy cố gắng giải quyết chính sách đối với một người có công với cách mạng như chị. Tỉnh ủy nhận lời, biếu chị một số quà, hứa nhất định sẽ giải quyết chế độ cho chị. Chia tay tôi, chị nói lời cảm ơn nghẹn ngào trong nước mắt khiến tôi cũng rưng rưng trong lòng, chị đã ngoài tám mươi rồi…
Mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm của hơn 40 năm phục vụ cách mạng Lào, đất nước Lào, hình ảnh chị Bua lại hiện lên trong tôi cùng biết bao người dân Lào bình dị đã từng đùm bọc, cưu mang chúng tôi, chia ngọt sẻ bùi trong những năm kháng chiến gian khổ cũng như trong hòa bình khi nước Lào đã thống nhất, độc lập. Họ là những con người mà từ lâu tôi đã coi như đồng bào, đồng chí, coi như những người thân của mình, trên một đất nước, xứ sở tôi đã coi đó là quê hương thứ hai của mình.
Nguyễn Văn Nghiệp – Chuyên gia VN tại Nam Lào