Phần I. Bốn năm trên đất nước Việt Nam anh hùng
Đã có hàng trăm câu chuyện viết về những kỷ niệm đậm tình nghĩa Việt – Lào trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, và trong sự nghiệp kiến quốc của hai dân tộc. Cái thuở “Hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” nó thấm đẫm ở trái tim, khối óc của hàng chục vạn con người, cả người Việt lẫn người Lào và đã trải qua nhiều thế hệ. Có thể nói, viết về Ký ức người lính tình nguyện chưa bao giờ có hồi kết. Người Việt viết về người Lào thì đã nghe, đã đọc, đã chứng kiến rất nhiều câu chuyện cảm động khó có thể nào quyên được. Còn người Lào viết về người Việt thì sao?
Tại thủ đô Viêng Chăn, trong dịp nhà nước Lào tổ chức kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống lực lượng Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam giúp cách mạng Lào (30/10 – 1949/2029). Chúng tôi đã vinh dự được Bộ Quốc phòng Lào mời sang dự, nhân chuyên đi chúng tôi đã tới thăm Bà Sunthon Saynhachac tác giả của nhiều câu chuyện hết sức cảm động đã được nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông Việt Nam cho in và phát hành tại các tập sách Ký ức người lính tình nguyện…
Đáp lại tấm lòng và tình cảm sâu nặng của bà Sunthon nói riêng và nhân dân các bộ tộc Lào nói chung. Thay mặt đoàn, Trung tướng Nguyễn Tiến Long Phó chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam – Lào, phó chủ tịch Hội truyền thống QTN VN đã trân trọng trao tặng cho tác giả – bà Sunthon Saynhachac Sách Ký ức người lính tình nguyện nói trên.
Nhân những ngày vui trọng đại của hai dân tộc, hai quân đội cùng tổ chức kỷ niệm 70 năm Quân tình nguyện Việt Nam, xin trích đăng một phần các câu chuyện mà bà Sunthon đã viết trong đó. Với tấm lòng trân trọng và biết ơn của bà Sunthon đã giành cho Cựu chiến binh Quân tình nguyện, cho nhân dân Việt Nam những tình cảm tươi sáng mẫu mực và thủy chung. Kính chúc bà sức khỏe, hạnh phúc và thành công trên cương vị cao cả và vinh quang mà Đảng và nhân dân Lào giao phó
Câu chuyện: “Bốn năm trên đất nước Việt Nam anh hùng”
Sunthon Saynhachac Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Nguyên Đại sứ Lào tại CHXHCN Việt Nam
(Tang 322, tập 8 Ký ức người lính – Nhà XB Thông tin và Truyền thông)
“…Tôi còn nhớ rất rõ, ngày 23/5/2007 là ngày tôi bắt đầu sang Việt Nam để thực hiện nhiệm vụ là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của CHDCND Lào tại CHXHCN Việt Nam. Sau đó một tuần lễ, tôi được vào trình Quốc thư lên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết vào ngày 30/5/2007.
Trong ngày trình Quốc thư, có 9 đại sứ nước ngoài, nhiều vị đã đợi đến 1, 2 tháng vì theo đúng nghi thức của Việt Nam tổ chức lễ trình Quốc thư thành từng quý. Trong hôm đó, tôi là người thứ 9, là người cuối cùng được trình Quốc thư đúng như chỉ đạo của Chủ tịch nước, ông muốn Đại sứ Lào sẽ là người trình Quốc thư cuối cùng vì sẽ có nhiều thời gian để nói chuyện hơn những vị đại sứ khác và thực tế đúng là như vậy. Tôi và Chủ tịch nước Việt Nam nói chuyện gần một tiếng đồng hồ và điều làm tôi cảm thấy xúc động nhất là sau cuộc nói chuyện đó, tôi xin phép ra về, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã đi ra ngoài phòng tiếp khách để tiễn tôi. Theo như tôi nghĩ, Chủ tịch sẽ chỉ tiễn tôi đến cửa phòng tiếp khách thôi, đó cũng là một điều đặc biệt rồi, nhưng Chủ tịch Nguyễn Minh Triết tiếp tục đi xuống tận chân cầu thang Phủ Chủ tịch để tiễn tôi, giơ tay chào bên cạnh xe ô tô và còn nói với tôi rằng đây là lần đầu tiên ông tiễn một vị Đại sứ đến tận cửa xe… Đây là điểm khởi đầu tốt nhất cho cuộc đời làm đại sứ tại CHXHCN Việt Nam của tôi.
Sau khi đã trình Quốc thư, tôi bắt đầu đến chào các vị lãnh đạo cấp cao ở Trung ương, các bộ, ngành và thăm lãnh đạo của khá nhiều tỉnh. Cho đến ngày về nước, tôi đã đi thăm được hơn 40 tỉnh trong tổng số 64 tỉnh, thành của Việt Nam.
Trong giai đoạn hơn 4 năm ở Việt Nam, không có ngày nào là không có hoạt động cả song phương và đa phương, nhiều hôm có tới 4 -5 đoàn đại biểu các cấp của Lào thăm Việt Nam. Đoàn nào cũng quan trọng, cũng cần có mặt của Đại sứ, cần phải sắp xếp thời gian tham dự, tổng kết lại thì một năm 2 nước đã trao đổi đoàn đại biểu các cấp khoảng hơn 300 – 400 đoàn… Trong thời gian đó, trong quan hệ giữa hai nước có nhiều sự kiện quan trọng khó quên, tôi xin nêu một số sự kiện như:
Tháng 7/2007, khi tôi hoạt động ở Việt Nam chưa đến hai tháng, chúng tôi cũng có hoạt động để kỷ niệm 45 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Lào -Việt Nam và 30 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Lào – Việt Nam. Đại sứ quán Lào đăng cai tổ chức chiêu đãi mừng sự kiện này tại khách sạn Melia, là một trong những khách sạn sang trọng ở Hà Nội và ngày tổ chức đón rất nhiều lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đến tham dự như: Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng và lãnh đạo các cấp làm cho giới ngoại giao cũng như Ban giám đốc khách sạn rất bất ngờ, choáng ngợp và không hiểu tại sao nhiều lãnh đạo cấp cao Việt Nam đến dự vậy? Chúng tôi chỉ trả lời rằng Lào và Việt Nam có truyền thống quan hệ đặc biệt từ lâu nay rồi.
Trong giai đoạn hoạt động tại Việt Nam, tôi đã được đi thăm nhiều tỉnh của Việt Nam ở miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh miền Nam Việt Nam. Ngoài đi theo kế hoạch của sứ quán, tôi còn nhiều lần đi liên hệ với lãnh đạo cấp cao của Đảng – Nhà nước Lào hoạt động tại Việt Nam nên số lần đi tỉnh của tôi ngày một tăng thêm, có nhiều tỉnh tôi đã đến rất nhiều lần. Trong những lần tôi đi thăm các tỉnh, điều mà tôi thấy ấn tượng và xúc động đó là tình cảm và sự gắn kết, thân thiết của lãnh đạo các tỉnh dành cho tôi và cán bộ sứ quán. Tôi rất có tình cảm với sự yêu mến của đồng chí, anh em lãnh đạo và nhân dân tỉnh Sơn La, là tỉnh trong suốt quá trình làm nhiệm vụ, tôi đã đến 3-4 lần. Mỗi lần đến, tôi đều nhận được sự đón tiếp rất nồng nhiệt, thân tình. Đặc biệt, chúng tôi còn có dịp đi thăm địa điểm hoạt động cách mạng của Chủ tịch Cayson Phômvihản tại bản Lao Khô, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La và đã trao Huân chương Hữu nghị cho bản và gia đình Lao Khô.
Ngoài ra, điều làm tôi rất ấn tượng là khi đến thăm tỉnh Hà Giang, là tỉnh địa đầu Tổ quốc, nơi có cột cờ Việt Nam hiên ngang tung bay trên đỉnh núi cao. Tôi nhớ nhất tỉnh này vì khi đi, tôi nhìn thấy điều kiện thời tiết, địa lý của tỉnh này khi so với những tỉnh khác thấy khó khăn nhất: đường xá quanh co uốn lượn quanh các núi đá, rẽ đâu cũng chỉ thấy đá. UNESCO đã công nhận đây là Công viên địa chất toàn cầu nhưng điều làm tôi ấn tượng nhất là những ruộng ngô mọc trên núi. Tôi rất quan tâm là tại sao nhân dân có thể trồng rau, trồng ngô trên núi đá thế kia? Và tôi nhận được câu trả lời là nhân dân ở đây rất chăm chỉ, họ tìm đất để đổ lên những khe núi đá để trồng ngô và cây hoa mầu. Nhân dân ở Hà Giang sinh ra đã thấy đá, đời sống hằng ngày cũng cùng với đá và khi chết cũng chôn cùng đá… Từ việc đi thăm tỉnh Hà Giang, tôi mới so sánh những khó khăn của đất nước Lào, không phải do điều kiện khí hậu, địa lý không thuận lợi mà vì trong cách sống của chúng ta chưa đủ sự chịu đựng và cố gắng. Nhân dân Hà Giang là một ví dụ cho sự chịu đựng, chăm chỉ, phấn đấu thật sự…
Trong suốt quá trình hoạt động tại Việt Nam và đến cả bây giờ, tôi luôn có tình cảm đặc biệt với sự gắn kết, tình yêu thương, tôn trọng với các bác, các cô chú từng là bộ đội Tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam mà tôi đã có cơ hội được gặp gỡ trong những hoạt động do cựu Quân tình nguyện Việt Nam tổ chức. Tôi cũng nhớ khu 79 – 81 Lý Nam Đế, Hà Nội, nơi có những gia đình cựu quân Tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam sinh sống, họ đều có tình cảm với nhân dân Lào và coi đất nước Lào như quê hương thứ hai của mình. Đại sứ quán Lào đã có nhiều dịp tổ chức gặp gỡ nhân dân ở khu Lý Nam Đế, đã trao Huân chương Hữu nghị của CHDCND Lào cho khu này để bày tỏ lòng biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào cho những đóng góp, hy sinh của các bác cho sự nghiệp cách mạng của 2 nước. Đến nay, các bác, các cô chú đều đã cao tuổi nhưng họ vẫn tiếp tục góp phần vun đắp mối quan hệ hiếm có giữa Lào – Việt Nam. Tôi muốn nhắc đến Ban điều phối quân Tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam do bác Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương là Trưởng ban, bác Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, bác Nguyễn Văn Nghiệp và rất nhiều bác khác, dù tuổi đã quá 80 – 90 nhưng các bác vẫn nhiệt tình hoạt động để góp phần vun đắp mối quan hệ thủy chung, trong sáng, hiếm có giữa Lào – Việt Nam.
Tôi còn nhớ rất rõ dịp kỷ niệm 60 năm Quân tình nguyện Việt Nam, trên cả nước có rất nhiều hoạt động sôi nổi và chỗ nào cũng muốn mời Đại sứ tham dự. Tôi đã cố gắng sắp xếp hoạt động của mình làm sao để có thể tham dự được những hoạt động này nhiều nhất có thể. Tôi còn nhớ, tối tôi còn đang tham dự hoạt động do Bộ chỉ huy quân sự Quân khu 2 tổ chức tại Phú Thọ, sau đó lên đường ngay trong tối đó để tham dự lễ kỷ niệm của Ban liên lạc cựu Quân tình nguyện Việt Nam tỉnh Nam Định, tôi đi đến tỉnh Nam Định cũng đã hơn 10 giờ đêm. Điều mà tôi nằm mơ cũng không nghĩ được đó là các bác, cô chú cựu quân Tình nguyện vẫn đứng đầy khán phòng chờ tôi, đặc biệt, có bác đã 85 tuổi còn ngồi chờ để hát nhạc Lào cho tôi nghe…
Hôm đó, nhân dịp cả hai bên Việt Nam – Lào tổ chức lễ tưởng niệm anh linh của quân Tình nguyện đã dùng tính mạng của mình để đổi lấy nền độc lập và tự do cho cả hai nước Lào – Việt Nam tại khu Tưởng niệm Việt Nam – Lào, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An, sau khi buổi lễ kết thúc, tôi phải lên xe về Hà Nội ngay trong đêm vì thời gian đi xe mất 6 giờ đồng hồ để kịp tham dự Lễ mít tinh cấp quốc gia của Bộ đội Tình nguyện của Việt Nam vào sáng hôm sau. Trong dịp kỷ niệm 60 năm này, tôi đánh giá rất cao có bác từng chiến đấu ở Lào đã giao lưu, nói chuyện với sinh viên Lào đang học tại các học viện, đại học của Việt Nam, các bác đã kể lại truyền thống đấu tranh anh dũng, chung chiến hào, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau của quân đội và nhân dân hai nước và dặn dò con cháu hãy coi trọng trách nhiệm của mình trong việc tiếp tục bảo vệ tình đoàn kết đặc biệt hiếm có giữa nhân dân hai nước Lào – Việt Nam ngày càng hiệu quả, xứng đáng với sự hy sinh to lớn của lớp cha ông đã cho chúng ta có hòa bình như ngày hôm nay.
Qua những lần giao lưu với các bác, tôi càng thấy những đóng góp to lớn, sự hy sinh tuổi trẻ, sức khỏe của mình như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giúp bạn chính là giúp mình” để cùng với bộ đội và nhân dân Lào đấu tranh chống giặc ngoại xâm cả trong giai đoạn đấu tranh chống Pháp và Mỹ để dành độc lập tự do cho đất nước. Qua những lần đi thăm nhiều tỉnh từ Bắc đến Nam, tôi lại càng thấy được tình cảm, tình hữu nghị của nhân dân Việt Nam đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào, những người đã kề vai sát cánh, chung chiến hào, giúp đỡ tương trợ “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” để đấu tranh chống lại kẻ thù chung trong suốt mấy chục năm và cùng dành được chiến thắng cuối cùng vào năm 1975. Tình cảm đó, sự giúp đỡ lẫn nhau đó vẫn tiếp tục được phát huy cho đến tận hôm nay…”
(Phần II – Nhắn về Bản Hua Nà Con Cuông “ Gần 50 năm vẫn không quên”)
Trần Phong