Trong những năm làm chuyên gia giúp Lào trước năm 1975, tôi và Phan Sỹ Quán cùng ở Phu Khe thuộc chiến khu cách mạng Viêng Xay – Sầm Nưa. Tôi ở và làm việc tại hang lớn của đại bản doanh chuyên gia Việt Nam Thông tấn xã ( VNTTX, nay là TTXVN). Còn Phan Sỹ Quán ở tại hang bên cạnh của khối chuyên gia văn hóa. Tên gọi khác nhau, nhưng chúng tôi cùng chung lĩnh vực thông tin, tuyên truyền, nên thường gặp nhau trao đổi công việc. Sau năm 1975, chúng tôi về nước, mỗi người làm việc tại một cơ quan khác nhau, nhưng cùng sinh hoạt Chi hội hữu nghị Việt – Lào gồm cựu chuyên gia các ngành tuyên giáo, văn hóa, giáo dục và báo chí, theo tiêu chí “ Trọn tình, vẹn nghĩa với Lào và đồng đội”.
Phan Sỹ Quán ( ảnh 1), sinh ngày 15 tháng 5 năm 1927, quê tại xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, quê hương thứ hai của tôi, chả là vì sau khi tốt nghiệp khóa 7 Khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp, Hà Nội, tôi về làm việc tại VNTTX, được cử làm phóng viên thường trú tại Nghệ An trong những năm chống chiến tranh phá hoại của máy bay Mỹ tại Khu IV rất ác liệt, nơi đầu nghề mà tôi có nhiều kỷ niệm đẹp. Còn Phan Sỹ Quán sớm tham gia quân ngũ, chiến đấu tại chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, từng vượt qua nhiều đèo cao, vực thẳm vào chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị), Hòa Mỹ (Thừa Thiên). Năm 1952, Bộ Tư lệnh Liên khu điều anh sang Lào, tham gia tình nguyện quân Việt Nam. Mặt trận Trung Lào có 2 tiểu đoàn quân tình nguyên tham gia. Tiểu đoàn 1 hoạt động tại vùng Lahảnậm, theo trục đường 23. Tiểu đoàn 2 hoạt động khu vực dọc đường 12, tiến vào vùng đồng bằng Mahảxay. Nhiệm vụ chủ yếu của hai tiểu đoàn chủ lực vừa đánh địch vừa xây dựng cơ sở. Ngoài hai tiểu đoàn này, Ban cán sự Trung Lào còn thành lập ba phân đoàn (9,13,812), mỗi phân đoàn có một số cán bộ Ban Cán sự và có các đội cơ sở, làm công tác dân vận trong vùng địch hậu. Phân đoàn 13 có 3 đại đội (101, 102, 103) hoạt động dân vận từ khu vực mương Mahảxay đến Đồng Hến (bắc đường 9).
Hoạt động trong vùng địch hậu xây dựng cơ sở, tuyên truyền chính sách của Neo Lào Ítxalạ, vận động nhân dân ủng hộ kháng chiến, chở che bộ đội đánh giặc. Tuyên truyền cho dân biết, dân hiểu, nhưng anh và các bạn anh lại không cùng ở với dân trong bản. Mùa khô, các anh thường ăn, ở ngoài rừng, nay đây, mai đó. Mùa mưa tầm tã, nước ngập sông, ngập suối, nước trắng rừng, trắng bản. Các anh phải làm chòi ở trên khu rẫy bỏ hoang sát sông Xê Nọi. Lên chòi phải có thang, tránh thú rừng mò đến. Hết tuần mưa, các anh lại chia tay nhau xuồng núi, thâm nhập vào bản hoạt động…
Trong chiến dịch Đông Xuân 1953, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp Quân đội Lào Ítxalạ mở mặt trận tại Trung Lào, đánh hai trận lớn tại Khămhe và Bannaphau thuộc tỉnh Khăm Muộn, diệt một tiểu đoàn lính pháo 105 ly, hai tiểu đoàn cơ động, đánh xập tuyến phòng thủ kiên cố nhất của địch tại đây. Các cánh quân ào ào thần tốc, hậu cần không theo kịp. Nhiều ngày bộ đội Lào – Việt phải ăn cháo, củ rừng cầm hơi. Mặt trận Lào Ítxalạ vận động nhân dân huyện Mahảxay, tỉnh Khăm Muộn ủng hộ bộ đội lương thực, thực phẩm không để bộ đội nhịn đói đánh giặc. Trên khắp nẻo đường, dân bản đi thành tốp 5, 6 người gùi gạo, rau quả chạy theo, ủng hộ bộ đội. Lệnh của ban chỉ huy mặt trận, trong khi hậu cần cung cấp chưa kịp, bộ đội tình nguyện có thể vay mượn lương thực, thực phẩm của dân bản, nhưng phải có giấy biên nhận…
Cựu chuyên gia TTXVN Nguyễn Thế Nghiệp thăm cựu quân tình nguyện, cựu chuyên gia, nhà thơ Phan Sỹ Quán tại nhà 74, ngõ 389, đường Trương Định, Hà Nội
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, các đơn vị quân tình nguyện rút về nước. Ban Chỉ huy Phân đoàn 13 giao nhiệm vụ cho Phan Sỹ Quán, Phân đội trưởng thuộc Đội 102 và chiến sĩ Xuân, hai người nói tiếng Lào thành thạo, mang theo một ba lô tiền về xã Xiêng Khay, huyện Mahảxay trả tiền cho dân bản. Điều bất ngờ xảy ra, khi thu giấy ghi nợ để thanh toán, đều không hợp lệ, không ghi rõ đơn vị vay, số lượng bao nhiêu. Giấy ghi nợ viết bằng bút chì hoặc mực tím nhòe nhoẹt. Có mảnh giấy bằng bàn tay, viết “Người vay là bộ đội tình nguyện Việt Nam đánh giặc Pháp”. Giấy ghi nợ không hợp lệ, Quán và Xuân khó thanh toán, lưỡng lự. Trưởng bản nói: “Các con cho dân bản bao nhiêu cũng được. Nếu không có, dân bản ủng hộ Bộ đội Cụ Hồ”. Tin dân bản Lào thật thà, coi đạo lý giúp người làm trọng, nhưng về nguyên tắc không thể đem mớ “biên lai” này về thanh toán. Phan Sỹ Quán lần rừng, trở lại đơn vị xin ý kiến. Đồng chí Nguyễn Nhung, Phó trưởng Phân đoàn 13 nói: “Dân Lào tốt lắm, giúp bộ đội tình nguyện trâu, bò, gạo, không tình toán thiệt hơn. Các đồng chí căn cứ vào lời khai của dân mà chi trả”. Sau khi thanh toán với dân bản, có giấy biên nhận tiền, Phan Sỹ Quán đem “ba lô biên lai” về đơn vị. Cán bộ lãnh đạo Phân đoàn 13 nói: “Đây là Tín phiếu Cụ Hồ, Tín phiếu đặc biệt Lào – Việt anh em, chia ngọt xẻ bùi, sống chết bên nhau ” …
Sau 3 năm về nước dưỡng bệnh và công tác, năm 1959 Phan Sỹ Quán lại vượt Trường Sơn sang Lào làm công tác dân vận và làm chuyên gia báo chí, tuyên truyền giúp bạn tại cơ quan Tuyên huấn Trung ương của Neo Lào Hắc Xạt. Có vốn sống phong phú về đất nước Lào, về phong tục, tập quán và văn hóa Lào hiếm người có được, Phan Sỹ Quán, với bút danh ở Lào là Thoong Đăm, bút danh ở Việt Nam là Phan Quý Hùng, Mai Ngọc Bích, đã viết báo, viết sách về Lào đủ các thể loại: hồi ký, bút ký, phóng sự, truyện ngắn, truyện dài và thơ ca…. Năm 2017, tròn 90 tuổi, Phan Sỹ Quán tuyển chọn các bài viết từng in trong 17 cuốn, xuất bản thành “Tuyển tập Thơ – Văn”, gồm 1310 trang (ảnh 3). Nhiều, bài viết của anh (chúng tôi vẫn xưng hô với nhau từ anh, quen rồi) đã được các báo ở Trung ương và báo địa phương đăng. Từ 1946 đến nay, anh Quán có 22 tác phẩm đạt giải báo chí, trong đó có 2 giải A do báo Văn nghệ và Câu lạc bộ Thơ Việt Nam tặng.
Phan Sỹ Quán tặng tôi Tuyển tập Văn Thơ, anh viết “có thể thời gian gần gũi bạn bè không còn lâu nữa, tôi để lại Tuyển tập Thơ Văn này, để mãi mãi ở bên cạnh các bạn…”. Nhiều bài viết hay, ý tứ sâu sắc. Đọc bài viết “ Hàng của chuyên gia” man mát một niềm vui và bâng khuâng một nỗi buồn. Câu chuyện kể về chuyên gia Việt Nam về phép, qua cửa khẩu Na Mèo vào một đêm mùa khô năm 1969, máy bay Mỹ đánh phá rất ác liệt khu vực này. Chiếc xe commăngca đít vuông chở 8 người vừa đến đồn biên phòng, ai nấy muốn làm thủ tục nhanh để vượt qua “cửa tử”. Anh cán bộ hải quan mặt non choẹt đến yêu cầu mọi người xuống xe, mang hết ba lô tư trang xuống để kiểm tra. Thay mặt mọi người, Phan Sỹ Quán trình bày anh chị em từ chiến trường Lào về trong ba lô không có hàng quốc cấm, mong được thông cảm, cho xe đi nhanh. Anh cán bộ hải quan nói: Các anh muốn đi nhanh, hãy cho kiểm tra hành lý. Nói mãi, anh ta vẫn lắc đầu, mọi người đành mở ba lô, trút hết đồ tư trang ra. Hàng chuyên gia về phép , ngoài quần áo, miếng vải dù pháo sáng, còn toàn lược, lọ hoa, ống đựng lương khô làm từ mảnh vỡ xác máy bay, ống pháo sáng. Có cả vỏ quả bom bi có cánh…Anh hải quan lắc đầu: Các “tướng” tha của nợ này về nước làm gì? Phan Sĩ Quan trình bày: Vật kỷ niệm những năm chiến tranh. Anh hải quan vẫn xẵng giọng: Tưởng các tướng có cái gì…. Quán đáp: Có cái có thể anh không thấy được… . Anh hải quan: Cái gì vậy …?. Quán nói rành rẽ từng tiếng: Đó là quan hệ đặc biệt Việt – Lào mà chúng tôi đã và đang góp phần vun đắp ./.
Nguyễn Thế Nghiệp – Nguyên Trưởng đại diện Thông tấn xã Việt Nam tại Lào