Tháng 12-1997
Bước sang thời kỳ 1951-1952, địch thực hiện âm mưu bình định trên toàn khu Hạ Lào hòng đẩy ta ra khỏi các địa bàn hoạt động ở La Ve. Chúng tăng cường tuyên truyền nói xấu, vu khống Việt Minh, Itxala, chia rẽ Lào-Việt; song song với đe dọa nhân dân, tung biệt kích, thám báo thâm nhập địa bàn, tổ chức phục, tập kích gây cho chúng ta một số tổn thất. Trước tình hình đó, một bộ phận nhân dân Lào trong vùng tỏ ra lo sợ, xa lánh, bất hợp tác với các lực lượng kháng chiến.
Quyết không để địch “tát nước bắt cá”, đội công tác chủ trương quần chúng hóa triệt để, đóng khố, cởi trần, học tiếng địa phương, thực hiện “ba cùng” : cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân…bám dân, bám bản, bám địa bàn từ những việc vặt trong nhà đến làm nương rãy, khám chữa bệnh, dạy chữ…bên cạnh tuyên truyền giác ngộ quần chúng.
Đời sống người dân La Ve vốn lạc hậu, nhiều phong tục kiêng cữ, đặc biệt là tình trạng “hữu sinh vô dưỡng” rất phổ biến nên dân ở đây, kể cả tầng lớp tộc trưởng, tù trưởng rất coi trọng việc sinh đẻ. Nhưng càng coi trọng họ càng có nhiều phong tục kiêng cữ rất phức tạp và phản khoa học nên tỷ lệ tử vong của sản phụ và trẻ sơ sinh càng cao. Họ rất lo sợ nhưng chỉ biết cầu cúng. Chính vì vậy những người làm nghề hộ sinh ở đây rất được dân kính trọng, được coi là bậc thầy, là người có công sinh thành, được dân cung phụng, nuôi dưỡng chu đáo, tầng lớp quan lại cũng có phần e nể.
Khi sản phụ sắp đến ngày sinh nở, người nhà phải tìm đến những nơi núi rừng hoang vu mà họ cho là linh thiêng để làm lễ cầu hồn và xả hồn, cầu thần linh phù hộ mẹ tròn con vuông. Khi sinh, sản phụ phải ngồi, người chồng buộc một khúc gỗ hoặc tre ngoài sàn, sản phụ bám vào đó để rặn đẻ. Đẻ vừa xong dùng luôn ba ống nước lạnh dội toàn thân sản phụ cho đến khi máu ra hết mới thôi !!! Cắt rốn trẻ sơ sinh bằng cật tre, chừa lại đoạn cuống rốn dài chừng gang tay, dùng lá rừng hay một mảnh vỏ cây buộc lại ! (nguy cơ nhiễm trùng uốn ván là cực kỳ cao !). Nhau thai đem phơi ở góc nhà hướng mặt trời mọc. Khi trong nhà có người đẻ, chủ nhà cắm cành lá trước cửa cấm người ngoài vào, trong bản cũng cắm lá cấm người nơi khác đến !!!
Sau khi tìm hiểu phong tục về việc sinh đẻ, chi bộ đội công tác do đ/c Trần Xuân làm bí thư quyết nghị thông qua việc đỡ đẻ làm cầu nối vừa giúp sản phụ sinh nở an toàn vừa tạo điều kiện tiếp xúc dân xây dựng cơ sở. Chi bộ phân công tôi làm hộ sinh vì trước khi vào bộ đội tôi đã qua một lớp cứu thương ba tháng do huyện Tam Kỳ (Quảng Nam) mở. Sau cuộc họp chi bộ, tôi được cử về cơ quan khu bộ Hạ Lào gặp chị Nguyễn Khoa Bội Lan và chị Hoàng Thị Hòe để được hướng dẫn thêm về nghiệp vụ sản khoa và bổ sung thuốc men, dụng cụ. Tôi được cấp thêm bông băng, thuốc sát trùng, một lọ dầu gió và một cái kéo. Qua nửa tháng bồi dưỡng, tôi trở lại đơn vị và bắt tay ngay vào việc của mình.
Sản phụ đầu tiên của tôi là Nang Ngưi, vợ anh Hợi ở bản Hà Đâu Nọi. Sau khi đun sẵn một nồi nước lá tre, lá sả có pha thêm thuốc tím, tôi đưa sản phụ vào nằm trong nhà, che kín bốn phía. Lúc sản phụ bắt đầu cơn đau đẻ, tôi động viên họ bình tĩnh, hướng dẫn cách lấy hơi rặn đẻ. Đứa nhỏ ra đời dễ dàng, tôi dùng kéo đã sát trùng cắt rốn, bôi thuốc sát trùng cuống rốn rồi băng lại, nhau thai thì cho gia đình làm lễ theo tập tục để họ yên tâm rồi đem chôn. Sau đó dùng nước lá tre, lá sả lau rửa sạch sẽ cho hài nhi và sản phụ.
Ca đầu tiên thành công tốt đẹp, mẹ con đều khỏe mạnh, gia đình vô cùng phấn khởi, cảm ơn “koong thăp Việt” hết lời. Tiếng lành đồn xa, các bản trong vùng chẳng mấy chốc đều biết “ thầy Hợi” ( vì tôi kết “Xiều” và lấy tên chồng chị Ngưi làm tên tôi), cán bộ tình nguyện Việt Nam đỡ đẻ kiểu mới rất an toàn. Từ đó, nhà nào, bản nào có người sắp sinh đều đến nhờ “thầy Hợi” khám thai, đỡ đẻ. Dù xa cả ngày đường, thậm chí trong đêm họ cũng đốt đuốc chạy đến tìm tôi.
Cách khám thai là đốt một đĩa dầu hoặc mỡ có chín ngọn bấc cho thai phụ trùm chăn xông để ấm bụng, sau đó nghe tim thai rồi dặn dò họ về cách giữ gìn vệ sinh, lao động vừa phải, ăn uống bảo đảm cho thai nhi…Những kiến thức mà ngày nay ai cũng biết nhưng vào hồi ấy là vô cùng mới mẻ, lạ lẫm lần đầu tiên họ mới được nghe.
Hơn hai năm trôi qua, tôi đã đỡ được cho 18 chị em mẹ tròn con vuông, đồng thời hướng dẫn, kèm cặp được mỗi bản một hai người biết đỡ đẻ. Từ đó, đỡ đẻ “kiểu thầy Hợi” trở thành phổ biến ở hầu khắp các bản trong vùng. Qua việc đỡ đẻ, dân càng tin yêu bộ đội tình nguyện Việt Nam, uy tín đội công tác tăng cao, chúng tôi có điều kiện tiếp xúc, xây dựng cơ sở vùng La Ve ngày một phát triển, tình cảm quân dân, tình Việt-Lào càng thêm gắn bó, âm mưu, thủ đoạn của địch bị vô hiệu.
Phạm Văn Bằng
(Chuyên gia giúp Bạn vùng LaVe – Hạ Lào)