Bao nhiêu năm đã trôi qua mà tôi vẫn thấy như hôm nào, những ngày đi trao đổi tù binh trên đất Bạn…
Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 được kí kết. Bộ đội tình nguyện Việt Nam chuẩn bị lên đường về nước theo hiệp định. Chúng tôi cũng chuẩn bị lên đường, nhưng không về nước mà đi làm nhiệm vụ đặc biệt, trao đổi tù binh.
Công việc chuẩn bị vật chất đơn giản, một tháng lương thực gạo muối, mắm khô, những thứ được vận chuyển từ nước nhà sang. Chúng tôi được ưu tiên cấp thêm hai lạng mì chính Trung Quốc đựng trong hộp sắt. Tôi còn nhớ, mỗi lần nấu canh, đồng chí bếp trưởng chỉ vẩy vào nồi canh to một chút mỳ chính bằng hạt đậu đen mà sao lại ngọt đến vậy. Rau là thức ăn chủ lực dọc đường. Nước được cung ứng từ suối không hạn chế. Riêng gạo phải cân đong định lượng cẩn thận từng bữa, phòng khi nhiệm vụ kéo dài.
Về trang phục, điều mà tôi không thể quên là, chúng tôi có thể là những người đầu tiên được phát một bộ đồng phục đại cán gồm : 1 mũ mềm, 1 áo đại cán với “36 đường gian khổ trên vai”, 1 quần và 1 đôi giày vải mà hồi ấy chúng tôi đi thử vào thấy êm quá không muốn tháo ra nữa. Thời ấy chúng tôi đi dép cao su hoặc đi giày “săng đá”, chiến lợi phẩm từ chiến dịch Sầm Nưa. Anh Phụng trưởng đoàn phổ biến: “Bộ đồng phục phát nhưng chưa được mặc. Chỉ khi nào gặp “quốc tế” mới được mặc và nhất thiết phải mặc, do đó cần giữ gìn cẩn thận, không được để nhàu nát”. Nhưng chúng tôi vẫn không kiềm chế được cái tò mò, hiếu kỳ nên mặc trộm thử xem sao. Mặc xong, ngắm nghía nhau, đều phá ra cười vì ngỡ ngàng: Sao bọn mình giống giải phóng quân Trung Quốc thế! Dọc đường hành quân, đôi bàn chân đau rát, nhưng không dám nghĩ đến đôi giày mới…
Nhưng thứ phải chuẩn bị nhiều nhất chính là về tinh thần, tư tưởng. Chúng tôi được phổ biến và đả thông việc đi làm nhiệm vụ trao đổi tù binh là đi làm nhiệm vụ chính trị, không phải nhiệm vụ tác chiến. Phải tránh mọi va chạm, xung đột vũ trang, đồng thời đề cao cảnh giác đối với địch, tuy chúng thất bại nhưng vẫn muốn lấn chiếm vùng giải phóng của bạn, nhất là trong giai đoạn này. Phải nhanh chóng, bí mật đến địa điểm trao đổi tù binh, hoàn thành nhiệm vụ rồi lại nhanh chóng bí mật rút về nước. Những điều đó chúng tôi phải độc lập, tự giải quyết mọi vấn đề liên quan đến nhiệm vụ vì bộ đội ta và bộ đội bạn đang tập kết về những nơi quy định.
Cả đoàn gồm 10 người, được trang bị một khẩu tiểu liên, điện đài, máy phát điện quay tay để hàng ngày liên lạc với trên. Đại diện cho bạn Lào là ông Thao Kê. Đại diện cho Việt Nam là anh Phụng, trưởng đoàn. Tôi với tư cách là thư ký đoàn nên luôn mang theo một cái sắc cốt to đựng sổ sách, giấy tờ. Tổ điện đài bao gồm ba đồng chí, một báo vụ, một cơ yếu, một quay máy phát điện.
Đoàn không có phiên dịch, phần tiếng Lào do ông Thao Kê chịu trách nhiệm. Dự kiến sẽ phải dùng đến tiếng Anh đối với khách quốc tế, tiếng Pháp đối với phía Pháp. Anh Phụng bảo: “ Tiếng Pháp thì tớ với Trọng thừa sức. Còn tiếng Anh thì giao cho Đại ( tên tôi ). Tôi rất vui vì được anh giao trọng trách đó, nhưng cũng rất lo vì sợ làm hỏng việc của đoàn. Tiếng Anh tôi học khá nhiều nhưng rời ghế nhà trường khá lâu, lại mới chỉ dựa vào sách vở chứ chưa giao tiếp bao nhiêu. Dọc đường tôi cứ lẩm bẩm ôn lại những câu chào hỏi, chúc mừng…làm anh em phải bật cười.
Chúng tôi được lệnh hành quân theo hàng ngũ nghiêm chỉnh, dũng khí hiên ngang để lấy uy thế của người chiến thắng và của bộ đội tình nguyện Việt Nam.
Tuy đã được chuẩn bị khá kỹ càng về tinh thần tư tưởng, song chúng tôi vẫn không khỏi lo lắng khi nghĩ đến những ngày sắp tới. Nỗi ám ảnh vẫn là vũ khí thì ít, trang bị lại cồng kềnh, gặp địch tấn công biết đối phó ra sao. Anh Phụng cho biết, bọn địch không muốn đánh nhau, nhất là sau khi có hiệp định Giơ-ne-vơ, uy thế của bộ đội tình nguyện Việt Nam lại cao, địch không muốn động chạm, gây sự. Ngược lại, nếu ta mang theo nhiều vũ khí, có thể bất lợi về chính trị trước quốc tế, nhất là nhiệm vụ trao đổi tù binh.
Tình hình thực tế dọc đường dần dần làm cho chúng tôi yên tâm hơn. Từ cơ quan Bộ tư lệnh – bản Bô Pha, đến thị xã Sầm Nưa không có gì khó khăn đáng kể ngoài việc vượt đèo Mường Liệt, không dốc lắm nhưng kéo dài hơn chục cây số, phải trèo một mạch đến đỉnh đèo mới có chỗ nghỉ thuận tiện. Rồi thị xã Sầm Nưa hiện ra trước mắt chúng tôi trong nắng vàng rực rỡ với hàng chục quả đồi cao thấp bao quanh. Chúng tôi cùng nhau nhắc lại chiến thắng Sầm Nưa 1953. Trên sân vận động của thị xã, một quang cảnh tưng bừng đang diễn ra. Những đơn vị đầu tiên của Pa- thét Lào tập kết về. Các đơn vị bạn trong trang phục chỉnh tề, tự tin, vũ khí đầy đủ. Dân các bản xung quanh thuộc nhiều sắc tộc khác nhau, quần áo đủ mày sắc đổ đến xem bộ đội như đi trẩy hội. Bất giác chúng tôi xúc động trào nước mắt và có chút ân hận; chẳng phải đã có lúc chúng tôi thiếu tin tưởng và lo lắng cho bạn sau khi bộ đội Việt Nam rút về nước theo hiệp định Giơ-ne-vơ. Bài học hôm nay về thắng lợi tất yếu của cách mạng Lào đối với chúng tôi hùng hồn hơn bao giờ hết.
Nhưng chúng tôi không được phép dừng lại lâu để chiêm ngưỡng khí thế hào hùng chưa từng thấy trên đất bạn. Anh Phụng đi nhận nhiệm vụ bổ sung. Lúc về anh cho biết địa điểm chính thức trao đổi tù binh là Hua Mương. Tôi tìm kiếm trên bản đồ và thấy nó nằm sâu mãi về phía tây thị xã Sầm Nưa. Bắt đầu từ đây chúng tôi phải hành quân đêm. Đi đêm vừa giấu kín được lực lượng, vừa tránh được cái nóng gay gắt ban ngày. Khả năng gặp địch về ban đêm cũng ít hơn vì chúng thường co cụm trong cứ điểm.
Thế là khi mặt trời vừa khuất núi, chúng tôi lập tức lên đường. Trên đường, chúng tôi gặp từng đoàn bộ đội Pa- thét Lào xen lẫn những người dân thường vui vẻ rầm rập kéo về hướng thị xã Sầm Nưa. Chỉ có đoàn chúng tôi là đi theo chiều ngược lại. Phấn khởi quá, chúng tôi quên cả bí mật, cất tiếng chào hỏi và đáp lại.
Nhưng rồi chẳng bao lâu, chúng tôi trở về tư thế sẵn sàng ứng phó. Tổ vệ binh mở đường báo đã đến bản Sa-la, một bản lớn trên đường bắt buộc phải qua. Đồng chí Hanh quay lại cho biết, có hơn chục tên phỉ trong bản nhưng không thấy động tĩnh. Anh Phụng nhận định chớp nhoáng: Đây là bọn phỉ đang bi bỏ rơi và lo sợ trước khí thế quân dân bạn. Anh lệnh cho chúng tôi cứ hàng ngũ chỉnh tề đi qua bản, phía trước có tổ anh Hanh sẵn sàng yểm trợ.
Đúng như nhận định, thấy chúng tôi đội ngũ chỉnh tề tiến bước, bọn phỉ từ trên các nhà sàn chạy xuống chắp tay vái, miệng lắp bắp: “ Săm bai…. Săm bai…Koong tháp a sa mắc Việt Nam!”. Rồi lại còn: “ Sa ma khi, sa ma khi!”. Rõ ràng bọn chúng tưởng chúng tôi đến lùng bắt, không kịp hàng đành phải ra chào đón. Anh Phụng và ông Thao Kê bảo chúng: “ Về nhà với vợ con đi! Chúng tôi không làm gì các anh đâu. Bộ đội Pa- thét Lào sắp đến đấy!”. Chúng cảm ơn rối rít rồi chạy biến vào bản. Anh Phụng bảo: “ Đáng lẽ phải dừng lại làm công tác địch vận và động viên dân bản nhưng yêu cầu nhiệm vụ không cho phép nấn ná lâu. Mấy lời nói của chúng ta hồi nãy cũng đã là địch vận rồi”.
Càng đi về phía tây càng vắng vẻ hiu quạnh, hầu như chẳng gặp ai. Chúng tôi phán đoán bọn địch đang co lại trong các cứ điểm, tránh va chạm với ta. Tuy nhiên chúng tôi vẫn luôn cảnh giác, ngày nghỉ đêm đi, ngủ trên đồi cao, không ngủ trong bản. Có đêm đi dưới chân đồi, nghe trên cao bọn địch cười nói ầm ĩ, đèn đóm lập lòe, chúng tôi thầm bảo: “ Trên nhận định đúng thật, chúng rất sợ đêm gặp ta!”.
Chúng tôi đến Mường Pơn. Từ đây đến Hua Mương không còn bao xa nữa. Theo dự kiến sẽ nghỉ lại Mường Pơn lấy sức để sáng hôm sau đi một mạch đến Hua Mương. Nhưng tình hình trong bản làm chúng tôi lo ngại. Dân sợ địch chưa dám về, cả bản chỉ có một cụ già. Thấy chúng tôi cụ mừng lắm nhưng tỏ vẻ lo ngại. Chúng tôi đoán rằng bọn địch vẫn còn lẩn quất đâu đây, uy hiếp dân bản. Ngoài trời bỗng mưa như trút. Đây là đêm có mưa đầu tiên kể từ ngày chúng tôi lên đường. Còn đang phân vân thì đồng chí Hưng báo vụ đem đến cho đồng chí Phụng bức điện của cấp trên đại ý: “Phải tranh thủ bằng mọi cách đến ngay Hua Mương. Đến đó sẽ an toàn. Bạn đang đợi…”. Không đắn đo, chúng tôi đi ngay. Đường vừa trơn vừa tối, sức chúng tôi dần kiệt. Anh Phụng động viên: “Trên theo dõi từng bước đi của ta và chỉ đạo kịp thời. Đi bây giờ là an toàn nhất. Ta phải biết biến khó khăn thành thuận lợi”. Tất cả ni lông, vải bạt tập trung cho tổ điện đài. Đường chim bay đến đó chỉ còn khoảng chục cây số.
Cuối cùng chúng tôi đã vượt qua tất cả để đến đích. Dòng sông Nậm Nơn chảy lấp lánh dưới chân đồi, hai bên bờ lau lách rậm rạp. Bản Hua Mương xinh xắn, với những mái nhà sàn thấp thoáng. Những chiếc thuyền độc mộc đưa chúng tôi qua sông. Đại diện đơn vị bạn cử người ra đón.
Chúng tôi nghỉ ngơi chờ đợi. Điện của trên chỉ thị: “ Yên tâm làm công tác chuẩn bị, không được đi đâu xa, đề phòng khách đến đột xuất”. Chúng tôi giúp bạn làm nhà họp, dọn sạch đường vào bản, dựng ba-ri-e, cổng gác. Tù binh địch đã được dẫn đến nhưng số anh em ta được trao trả vẫn chưa thấy phía Pháp đưa đến. Một tuần, rồi hai ba tuần trôi qua. Lương thực bắt đầu cạn. Hàng ngày chúng tôi vẫn biết bọn phỉ thường ra cướp bóc mấy bản gần đó là chúng tôi có phần lo lắng.
Có một tù binh Pháp tên là Giăng-ắc-lô, cấp bậc thiếu úy. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, hắn đi thả dù tiếp tế cho Đờ Cát-tơ-ri, máy bay bị trúng đạn ta nhưng rơi xuống đất Lào. Hắn được trao trả đợt này và đến Hua Mương trước chúng tôi một tuần lễ. Chúng tôi được bạn nhờ giúp điều trị cho hắn bởi hắn khá ốm yếu, sụt cân, ăn uống kém. Anh Trọng và tôi bàn nhau phải đi sâu vào tình cảm của hắn, không nói chuyện chính trị, có thể tình hình sẽ khá hơn. Chúng tôi đến gặp Giăng-ắc-lô, thấy hắn nằm dài, mặt quay vào vách. Anh Trọng chào hắn bằng tiếng Pháp rất lịch sự. Rồi anh hỏi thăm hắn nhẹ nhàng tình cảm. Được biết Giăng-ắc-lô ở đảo Coóc- sơ, một vợ và một con gái. Giăng-ắc-lô có vẻ ngỡ ngàng trước sự lịch lãm và hiểu biết sâu sắc về mọi vấn đề của chúng tôi, hắn nói: “Tôi xin lỗi! Tôi đã tưởng lầm các ông chỉ là người Cộng sản cuồng tín. Không ngờ các ông có trình độ văn hóa cao như vậy?”. Khi biết chúng tôi từ xa tới và đi bộ, chân trần, hắn lại thốt lên cảm phục: “ Không thể tin được!Không thể tin được!”.
Chúng tôi lấy mục tiêu chính là động viên Giăng-ắc-lô cố gắng ăn uống, điều trị vết thương và từ đó thường xuyên đến thăm hắn. Giăng-ắc-lô trở nên hoạt bát vui vẻ. Sau này Giăng-ắc-lô còn viết một lá thư rất cảm động, ca ngợi sự khoan hồng nhân đạo của cách mạng đọc trước tổ Quốc tế làm cho ông Trưởng đoàn người Ấn Độ rất xúc động.
Cuối cùng thì “khách” cũng đã đến, chậm gần một tháng so với dự kiến. Khách đến trong một tình hình mà mỗi khi nhớ lại, chúng tôi còn thấy “hú vía”! Như tôi đã kể trên, sau thời gian chờ đợi, chúng tôi nhận được điện của trên “ Chuẩn bị đón tổ Quốc tế đến bằng máy bay trực thăng”. Bức điện chỉ vẻn vẹn mấy chữ nhưng chúng tôi rất lo lắng. Máy bay trực thăng hạ cánh xuống đây như thế nào? Chúng tôi chưa có khái niệm gì về nó. Sau khi bàn bạc kỹ, chúng tôi nhất trí với nhau là dọn một bãi lớn giữa bản, cắm cờ hiệu, giăng màn trắng ở bốn góc sân. Ngoài ra còn chuẩn bị một đống rạ khô để khi máy bay đế thì đốt lên làm hiệu.
Hôm sau, khoảng 9 giờ sáng thì có tiếng ì ì từ xa vọng lại. Chúng tôi lập tức đốt lửa cho khói bốc lên. Tiếng “phành phạch” rõ dần rồi máy bay hiện ra. Nó lượn một vòng quanh bản rồi tìm bãi đáp. Chúng tôi hối hả mặc bộ quần áo đại cán cất giữ bao ngày rồi chạy ra bãi. Nhưng một điều mà chúng tôi không ngờ tới đã xảy ra. Sức mạnh của cánh quạt quét mạnh làm bụi bay mù mịt, mái nhà dân gần bãi cứ phập phồng như gặp bão. Hình như máy bay cảm thấy nguy hiểm nên không hạ xuống mà lại bốc lên cao rồi quay về hướng tây. Anh Phụng tái mặt bảo: “ Nó không xuống nữa là có chuyện đấy! Thế nào nó cũng phê phán mình là đón tiếp không chu đáo. Không hoàn thành nhiệm vụ trên giao rồi!?”.
Thế rồi tiếng ì ì lại vọng đến to dần, to dần… Nhưng vẫn không thấy máy bay đâu cả. Chúng tôi ngơ ngác, bất lực. Chợt đồng chí vệ binh gác trên đồi kêu to: “ Máy bay hạ xuống sông rồi!”. Đúng là máy bay đã hạ nhưng không phải xuống sông mà trên một bãi cát dài dọc bờ sông. Thật là hú vía!
Bước từ máy bay xuống là ông đại tá trưởng đoàn người Ấn Độ, một trung tá người Ba Lan, một thiếu tá người Ca-na-đa, một phiên dịch tiếng Anh, một tổ điện đài và một phi công người Pháp. Cuộc đón tiếp diễn ra suôn sẻ. Người nói tiếng Anh, kẻ nói tiếng Pháp. Chúng tôi hiểu được và đọc lưu loát bằng cả tiếng Pháp và tiếng Anh. Ông trung tá Ba Lan hài lòng nhìn chúng tôi rồi giơ một ngón tay cái lên tỏ ý khen ngợi. Sau buổi tiếp, đồng chí phiên dịch người Ba Lan bấm chúng tôi lại nói: “ Đồng chí trưởng đoàn muốn tối nay gặp riêng các ông.”.
Lần đầu tiên chúng tôi dược hiểu biết thêm về “ phe ta”. Đồng chí Đoàn trưởng gọi chúng tôi là “ đồng chí”. Đồng chí cho biết hồi sáng đã phải đấu tranh với viên phi công người Pháp về việc hạ cánh. Viên phi công lấy cớ không hạ cánh xuống bãi vì quá gần nhà dân và cũng không muốn hạ xuống bờ sông vì muốn kiếm cớ trách ta đón tiếp không chu đáo. Đồng chí hỏi thăm điều kiện sinh hoạt của chúng tôi và tỏ ra rất thông cảm. Đồng chí gửi cho chúng tôi sữa, bánh, cà phê, thuốc lá…
Hôm sau đoàn Pháp đến. Cuộc trao đổi tù binh diễn ra tốt đẹp. Anh em ta bị địch bắt đều tố cáo hành động tra tấn dã man trong thời gian bị giam giữ. Ngược lại, số tù binh được ta trao trả đều cảm ơn sự đối xử nhân đạo của phía Việt Nam. Đặc biệt là bức thư do viên phi công Pháp Giăng-ắc-lô đọc và trao cho trưởng đoàn Quốc tế. Đại diện của Pháp cúi mặt xuống…
Rồi chúng tôi cùng bạn Lào tổ chức buổi tiễn đưa khách quốc tế. Tất cả đều tham gia hát Lăm vông và được dân bản buộc chỉ cổ tay, chúc lên đường may mắn.
Tổ chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ. Giờ chia tay với bạn Lào cũng đến, sau khi đã cố nấn ná gần một tuần lễ vì quyến luyến. Đêm tháng 12 rất lạnh, trước lúc từ giã ai cũng bâng khuâng trong lòng. Biết bao giờ mới có dịp gặp lại. Các mẹ, các chị, các bạn tiễn đưa một quãng dài. Chúng tôi vừa đi vừa ngoảnh lại cho đến khi chỉ nhìn thấy một màu xanh thẳm của đồi núi sau lưng…
Đào Văn/Nguyễn Xuân Đại