Mùa mưa năm 1969, Mỹ – Vàng Pao mở cuộc hành quân “Cù Kiệt” (cứu vãn danh dự) lấn chiếm ra vùng giải phóng Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng. Không quân địch đánh phá dữ dội, bịt các ngả đường vận chuyển cơ giới chi viện sang chiến trường. Đối mặt với 16 tiểu đoàn, 52 đại đội, gần 10 ngàn tên địch được không quân Mỹ- Thái- Vàng Pao hỗ trợ tối đa làm chưa đầy 10 tiểu đoàn của ta và bạn Lào đã xơ xác, kiệt quệ sau những chiến dịch mùa khô. Địch dần dần đẩy lùi ta trên tất cả các hướng, các đơn vị ta, mà nhiều đơn vị về thực chất chỉ còn phiên hiệu buộc phải lùi dần về phía biên giới Lào-Việt.
Đại tá Nguyễn Văn Nhã cựu chiến binh quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu tại Lào – tác giả với những câu chuyện Ký ức người lính tình nguyện Việt Lào
Trước tình hình trên, Bộ Quốc phòng quyết định mở chiến dịch 139, còn gọi là Chiến dịch Toàn Thắng, phản công lấy lại vùng Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng. Tư lệnh chiến dịch, đại tá Vũ Lập người Tày Hòa An, Cao Bằng, một trong 34 chiến sỹ đội tuyên truyền giải phóng quân, tư lệnh Quân khu Tây Bắc. Chính ủy, đại tá Huỳnh Đắc Hương.
Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch giao nhiệm vụ cho bộ đội xe tăng: “Tham gia trong đợt 2 chiến dịch, phối hợp cùng các lực lượng khác thu hồi toàn bộ khu vực Cánh Đồng Chum”. Ngày 28 tháng 10 năm 1969, trên hướng chủ yếu, tiểu đoàn 2 trung đoàn 141 và tiểu đoàn 3 trung đoàn 174 cùng xe tăng tiến công Phu Phựng, Lạt Buộc. Ba tiểu đoàn quân Vàng Pao bị thiệt hại nặng phải rút chạy. Trung đoàn 165 cùng xe tăng tiến công vào thị xã Xiêng Khoảng, Phu Chông Vông, Then Phun và Keo Hom, diệt hàng trăm tên địch, buộc chúng phải rút về Xảm Thông củng cố lực lượng chờ viện binh.
Đầu năm 1970, địch tăng cường lực lượng quân sự. Quân đội phái hữu Viêng Chăn từ 130 thành 150 tiểu đoàn. Lực lượng Vàng Pao từ 64 lên 86 tiểu đoàn. Cố vấn Mỹ tới 1.200 lượt người, máy bay Mỹ dĩ nhiên cũng tập trung vào địa bàn chiến lược này.
Căn cứ ở sân bay Bản Áng là trung tâm Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng.
Bước sang đợt 2, Bộ chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 195 Tăng thiết giáp tham gia lực lượng thọc sâu chiến dịch, cùng các lực lượng đánh tan rã toàn bộ quân địch ở Cánh Đồng Chum. Đại đội 18 tổ chức thành 2 phân đội hỗn hợp đánh trên 2 hướng. Hướng chủ yếu gồm trung đội tăng 1, với 6 xe tăng, 5 xe thiết giáp theo đường 7 tiến công vào trung tâm Cánh Đồng Chum. Hướng thứ yếu gồm trung đội tăng 2, với 4 xe tăng, 3 xe thiết giáp cùng bộ binh giải phóng Noọng Pẹt, phát triển theo đường 4, cùng trung đoàn 148 (sư đoàn 316) mở thông cửa ngõ tiến vào trung tâm Cánh Đồng Chum.
Nếu là chiến dịch tiến công thì công tác chuẩn bị phải làm thật tốt. Cả bộ binh và xe tăng đều phải đi trinh sát thực địa, lập sa bàn, lên kế hoạch hợp đồng binh chủng tiến công. Đằng này là chiến dịch phản công lại địch nên ta không chủ động được công tác chuẩn bị.
Xe tăng PT76 (K3) vốn chỉ có pháo 76mm, không có 12 ly 7, Về Việt Nam, ta mới cải tiến, lắp thêm. Kíp xe chỉ có 3 người nên pháo thủ 2 vừa làm nhiệm vụ nạp đạn cho trưởng xe bắn pháo vừa kiêm sử dụng 12,7 li.
Quanh tháp pháo, vốn có những đoạn giống như đinh đỉa hàn cố định vào để bộ binh khi hành tiến có thể bám vào. Khi chiến đấu thì các cửa xe đều phải đóng hết lại. Nhưng trường hợp này, vì ngoài xe vẫn có 3 công binh Lào và Việt Nam nên các cửa xe đều mở.
2h15’ ngày 18 tháng 2 năm 1970.
Pháo binh chiến dịch theo lệnh bắn phá hoại 15 phút vào trận địa địch ở sân bay Bản Áng. Lẽ ra sau đó công binh phải dùng bộc phá ống đánh mở cửa cho xe tăng kéo theo bộ binh xung phong.
Nhưng không biết vì lý do gì xe tăng không liên lạc được với bộ binh. Đang là nửa đêm về sáng. Sương giăng mờ mịt, trời tối đen như mực. Cả tăng thiết giáp và bộ binh đều lạ nước lạ cái, bộ binh vận động sẽ rất khó khăn. Nhưng khó khăn thì cũng phải liên lạc được chứ. Đằng này bặt vô âm tín mới lạ. Không có bộ binh, liệu xe tăng đánh một mình có mạo hiểm không. Tốt nhất là xin lệnh cấp trên. Đại đội trưởng xe tăng Đỗ Bá Sơn hội ý với chính trị viên Nguyễn Huy Cận rồi báo cáo với trung đoàn phó xe tăng Nguyễn Quang Xì biệt phái phụ trách tiểu đoàn. Trung đoàn phó quán triệt:
– Cách mạng chỉ có tiến công, truyền thống xe tăng ta là tiến công. Không có bộ binh cũng tiến công! Xông lên!
Thế là cả 4 xe gầm lên hăng hái lao vào cuộc chiến.
Vì không được trinh sát thực địa trước nên lái xe không biết đường. Lại không thể bật đèn pha tìm đường đi. Quá bằng làm mồi cho súng chống tăng địch. Cũng may là còn có công binh Pa thét Lào dẫn đường. Mỗi người một xe. Hai công binh ta cũng ngồi ngoài xe có nhiệm vụ cùng kíp xe khắc phục khi xe gặp sự cố. Người công binh Lào phải ngồi trên nắp xe, cạnh cửa lái xe. Tay bám chặt vào thanh sắt, tay chỉ đường đi. Rất may là người lính công binh bạn trên xe 514 biết một ít tiếng Việt. Nhưng chủ yếu vẫn là dùng ngôn ngữ cử chỉ. Có điều thời tiết thế này thì làm sao nhận ra đường. Không biết căn cứ vào vật chuẩn nào, định hướng nào, hay bằng cảm giác đi đường mà anh lính Pa thét Lào dẫn lái xe Noọng đưa xe 514 vào được điểm xuất phát xung phong an toàn.
Địch nã cối, bắn DKZ cản đường. Anh bạn Lào thốt nhiên im tiếng gục xuống. Noọng vội miệng báo cáo trưởng xe hãm xe lại. Cận lệnh cho Tỉnh ra ngoài tìm cách buộc chặt người chiến sỹ Lào vào xe. Sân bay rộng mênh mông, địch không làm hệ thống hàng rào dây thép gai nhưng gài mìn dày đặc. Ba trong bốn chiếc xe trúng mìn nhưng ngẫu nhiên chỉ bị một trong 3 quả nên chỉ nằm chết dí một chỗ bắn chi viện thôi, nhưng vẫn chẳng thấy tăm hơi bộ binh đâu.
Bìa cuốn sách Lịch sử tiểu đoàn xe tăng 195 tập hợp nhiều ký ức hào hùng của một đơn vị xe tăng anh hùng.
Chỉ còn một xe, đơn thương độc mã, không có bộ binh hiệp đồng. Xe đại đội trưởng cũng dính mìn, chỉ còn mỗi xe 514 của chính trị viên Nguyễn Huy Cận, bốn bị hai còn cố được, chứ chỉ còn mỗi một xe mà cứ đánh, lại không có bộ binh thì có liều lĩnh không !? Phải hỏi cấp trên. Nhưng cấp trên thì đang hăng máu chiến đấu:
– Cách mạng là tiến công. Một xe cũng đánh, sợ đ… gì !? Cứ xông lên!
Cấp trên đã động viên thế, chỉ thị thế. Là chính trị viên đại đội, bí thư chi bộ, Cận càng hăng máu:
– Ba xe đã vướng mìn, chỉ còn khả năng chi viện từ xa. Lại không có bộ binh hiệp đồng. Nhưng còn 1 xe cũng tiến công. Đồng chí Định thay tôi chỉ huy xe!
Biết tôi vào bộ đội từ năm 1963, là kỹ thuật viên xe tăng, đã từng đi B. Năm 1969 lại sang chiến trường C, nắm chắc kỹ thuật, chỉ huy sẽ tốt hơn…Tôi nhận nhiệm vụ, ra lệnh ngay:
– Noọng chú ý, dù đi số nào, chân dầu cũng phải sâu nhất cho tiếng nổ to nhất để uy hiếp tinh thần địch. Rõ chưa?
– Rõ!
Tưởng tất cả xe đã bị tiêu diệt, cũng không thấy bộ binh ta đâu, đột nhiên tiếng xe tăng gầm đinh tai nhức óc, và ngay phát đạn xuyên đầu tiên đã nổ trúng Sở chỉ huy địch. Phát thứ hai, không biết làm thế nào lại trúng trung tâm thông tin. Qua kính ngắm hồng ngoại không thể nào quan sát rộng được. Không nói gì, Cận chụp chiếc mũ công tác trên đầu tôi, liều lĩnh mở cửa xe nhô hẳn người lên để quan sát bằng mắt thường. Từ tháp pháo, anh thấy những vệt đạn đỏ phía trước thấp hơn, đoán đấy là công sự ngầm hoặc hào giao thông, liền lệnh cho Noọng xông tới dùng xích nghiền nát địch. Noọng vẫn nhấn chân dầu nên tiếng xe vẫn gầm rú. Đúng là đã đè trúng hầm hào giặc vì xích xe xa xuống hào làm mọi người rơi hẫng xuống, gây chấn động cả xe. Không phải là hào chống tăng nên nó vượt qua dễ dàng. Sau đó anh mới thụt người vào lòng xe, trả lại mũ trưởng xe cho tôi, rồi từ vị trí pháo 2 dùng khẩu 12ly7 li chúc nòng xuống nhằm vào chỗ hỏa điểm địch liền xiết cò, khẩu trọng liên chớp lửa nhoàng nhoàng, những viên đạn vạch đường từ cự ly gần rất căng, nổ đinh tai, vạch những vệt màu da cam cắm thun thút vào phía công sự địch.
Cựu chiến binh Phùng Tiến Định – thành viên kíp xe tăng 514 trên chiến trường Xiêng Khoảng
Bỗng một tiếng nổ váng óc và một chớp lửa nhằng một cái ngay trước nắp cửa trưởng xe vẫn chưa đậy hẳn làm một công binh ta hy sinh ngay, một bị thương. Nhờ nắp của xe che chắn nên Cận chỉ bị thương. Mảnh đạn cối xuyên thủng nắp cửa xe trúng Cận, nếu không cũng hy sinh như anh công binh rồi. Tôi cũng bị thương nhẹ, vẫn còn kịp băng bó cho Cận. Trong cáp nghe vang lên tiếng thủ trưởng:
– 514 nghe rõ trả lời?
– 514 nghe rõ!
– Báo cáo tình tình?
– Báo cáo, anh Cận bị thương, chỉ định tôi làm trưởng xe, đang cơ động chiến đấu…
– Bộ binh đã vào chưa?
– Chưa thấy !
– Anh em thế nào?
– Hai công binh hy sinh, đã đưa vào trong xe, không có họ thì xe tôi cũng không vào được, Anh em vẫn quyết tâm cao. Hết!
– Ban chỉ huy biểu dương 514 chiến đấu giỏi. Nhớ luôn cơ động, tận dụng tối đa sức mạnh.
Trong khi tôi liên lạc với trên, Noọng vẫn cho xe chạy số 2, để vừa tránh đạn bắn thẳng của địch vửa quơ những vòng rộng để chà xát công sự hầm hào địch.
Nhận lệnh xong, tôi lại dán mắt vào kính hồng ngoại, vừa chỉ huy xe vừa dò tìm mục tiêu. Đột nhiên, thấy một cụm lửa lóe sáng ! Phát nổ đầu nòng của pháo địch !
– Bên trái ! Pháo trong hầm ! Đạn xuyên !
Nòng pháo xe tôi chớp lửa, phát đạn xuyên bùng lên một đám khói lẫn đất đá phía mục tiêu !
– Đạn xuyên, phát nữa !
– Này!
– Pháo địch bên phải, Noọng ! Trận địa pháo rồi, đạn xuyên tiếp !
Mỗi phát nổ của khẩu pháo 76,2 ly, chiếc xe giật lùi lại chừng hai mắt xích. Cảm giác như mấy anh em đều cùng cộng hưởng đẩy cho quả đạn lao vào đích, xuyên vào mục tiêu rồi mới từ trong nổ ra, phá từ trong ra thật sướng không tả được!
Địch bỏ chạy tán loạn, Noọng lái xe đuổi theo, Tỉnh lao đạn phá, quả đạn nổ tung, nhiều tên gục ngay tại chỗ.
Tính từ lúc pháo chiến dịch ngừng bắn đến lúc này là 5h30, ba tiếng đồng hồ ! Xe 514 đã bắn 14 viên đạn pháo, 2 thùng 12ly7. Dù không có bộ binh hiệp đồng, chiếc xe tăng đơn độc của vẫn làm căn cứ địch tan hoang. Không biết đã diệt được bao nhiêu địch, phá hủy được bao nhiêu vũ khí khí tài, nhưng chúng tôi đã làm chủ trận địa. Bỗng nhiên một quả cối rơi trước nắp đậy xe, chính cái nắp đậy này đã che cho lái xe Noọng khỏi mất mạng.
Tiếng thủ trưởng vang lên trong tai nghe:
– 514 nghe rõ báo cáo!
– Báo cáo: chúng tôi đã làm chủ trận địa, bộ binh chưa vào nên chưa làm chủ hoàn toàn. 514 vừa bị trúng một quả đạn cối làm tôi bị thương. Chờ lệnh !
– Thoát ly nhanh về bản Len!
Không biết ai phải chịu trách nhiệm về việc sau 3 ngày, tới tận 3h ngày 21 tháng 2 năm 1970, tiểu đoàn 4, trung đoàn 148, sư đoàn 316 mới chiếm xong sân bay Bản Áng? Cũng may là tuy mất 3 chiếc PT76 nhưng bù lại, chiếc 514 đã vẻ vang hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thọc sâu đánh hiểm.
Toàn chiến dịch, ta đã tiêu diệt 2 tiểu đoàn lính đánh thuê nước ngoài, 3 tiểu đoàn quân Vàng Pao, đánh thiệt hại 10 tiểu đoàn. Tỷ lệ thương vong: ta 1 – địch 9. Hơn 740 cán bộ chiến sĩ mình đã hi sinh và bị thương. Riêng xe tăng hy sinh 7 người và một chiến sĩ công binh Lào, mất 3 xe.
Chiến công này chúng con, những người con của các dân tộc Việt-Lào, làm nén tâm nhang thắp lên để tưởng nhớ công ơn Bác mà tiểu đoàn xe tăng chúng con có vinh dự lấy ngày sinh của Người đặt tên – tiểu đoàn 195!
Phùng Tiến Định kể
Đại tá Nguyễn Văn Nhã ghi