Tại hội thảo khoa học “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới, phát triển và bảo vệ Tổ quốc” diễn ra hôm 8-5 vừa qua, phát biểu đề dẫn hội thảo, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư T.Ư Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư nêu rõ, từ thực tiễn cách mạng nước ta hơn 90 năm qua, từ những thắng lợi vĩ đại của dân tộc kể từ khi có Đảng đã cho thấy rằng, học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng ta nhất định sẽ lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Báo Nhân dân điện tử giới thiệu bài phát biểu đề dẫn hội thảo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất, người chiến sĩ tiên phong, mẫu mực của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người là bản anh hùng ca về chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tận tụy, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, vì hòa bình, phát triển và tiến bộ của nhân loại (1). Tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người là tài sản vô cùng quý báu của toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta, mãi là niềm tự hào, nguồn cổ vũ to lớn đối với các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam, dẫn dắt Ðảng ta, dân tộc ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Nhà yêu nước vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến bao nỗi đắng cay, khổ cực của nhân dân và nhiều cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh yêu nước, chống thực dân Pháp lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào bế tắc như “không có đường ra”, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã nung nấu quyết tâm tìm một con đường mới để cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc. Người quyết định sang nước Pháp, hướng về các nước phương Tây, để tìm hiểu cho rõ những gì ẩn giấu đằng sau khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”; và “…sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” (2). Ngay tại phương Tây, Người đã sớm nhận ra rằng: các cuộc cách mạng tư sản dù vĩ đại như cách mạng Mỹ hay cách mạng Pháp vẫn không giải phóng được những người lao khổ, nghĩa là cách mạng không triệt để, không đến nơi. Hòa mình vào phong trào công nhân, phong trào xã hội ở Pháp và các quốc gia phương Tây khác, tích cực tham gia Quốc tế cộng sản; Người đã tham gia sáng lập Ðảng cộng sản Pháp và sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa nhằm cổ vũ, đoàn kết, hướng dẫn nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng.
Từ thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú ấy, khi được nghiên cứu bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lê-nin dưới ánh sáng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường duy nhất đúng để cứu nước và giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ðến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người trở thành tấm gương sáng ngời về sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cộng sản, về những đóng góp to lớn cho tình đoàn kết giữa nhân dân các nước, giữa giai cấp vô sản ở chính quốc và các dân tộc thuộc địa, giữa các nước xã hội chủ nghĩa và giữa các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy, phát huy truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc ta lên tầm cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy sức mạnh vô tận của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Người đã chỉ ra thời cơ lớn cho dân tộc Việt Nam với ý chí mãnh liệt: “dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(3), động viên toàn dân ta vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền, đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, phong kiến, làm nên thắng lợi vẻ vang của cuộc Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi đó không chỉ là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn là bước ngoặt đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân, mở ra một thời đại mới cho phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân các nước thuộc địa; minh chứng cho lời khẳng định đanh thép của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập trước toàn thể quốc dân đồng bào: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do, độc lập(4).
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ thiên tài, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Ðảng ta
Trong tác phẩm Ðường Kách mệnh, cuốn giáo trình huấn luyện cán bộ đầu tiên của Ðảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh… Ðảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Ðảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,… Ðảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(5). Ngay từ khi còn hoạt động ở nước ngoài, Người đã thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, tổ chức các lớp huấn luyện cán bộ để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ trường học này, Người đã đào tạo ra những học trò xuất sắc, nhiều người đã trở thành những lãnh tụ đầu tiên của Ðảng ta. Ðó là những bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ hết sức quan trọng để mùa xuân năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Người tâm niệm rằng: Ðảng ta là một đảng cách mạng chân chính, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc; Ðảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, lấy lợi ích quốc gia dân tộc và hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu hành động. “Ðảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(6); “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Ðảng không có lợi ích gì khác”(7).
Ðể hoàn thành sứ mệnh của Ðảng cầm quyền, Người chỉ dạy, phải thường xuyên chăm lo công tác xây dựng và chỉnh đốn Ðảng, tăng cường năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng. Trong Ðảng, phải thực hành dân chủ rộng rãi, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất như giữ gìn “con ngươi của mắt mình”; phải coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, kiên quyết chống lại những căn bệnh làm cho Ðảng đông mà không mạnh; Ðảng và mỗi đảng viên phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chăm lo cho nhân dân về mọi mặt(8).
Người coi xây dựng Ðảng về đạo đức là vấn đề hệ trọng có liên quan trực tiếp đến sinh mệnh của Ðảng, đến sự thành bại của cách mạng, bởi đạo đức là nền tảng, gốc rễ của đảng cách mạng và những người cách mạng chân chính. Người khẳng định, Ðảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới giàu mạnh, văn minh là một sứ mệnh vẻ vang, một sự nghiệp nhân văn cao cả, nhưng cũng là một trọng trách được toàn dân tộc ủy thác. Do đó, Ðảng ta phải là nơi hội tụ những tinh hoa giá trị của dân tộc và thời đại, xứng tầm một chính đảng kiểu mới, là trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh”(9).
Xây dựng Ðảng về đạo đức chỉ có thể thành công nếu mỗi cán bộ, đảng viên thường xuyên học tập, rèn luyện tu dưỡng hàng ngày, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, để trở thành người có đức, có tài, “vừa hồng, vừa chuyên”, những tấm gương sáng mẫu mực. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(10). Những phẩm chất đạo đức cách mạng hàng đầu như lời chỉ dẫn của Người là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Ðảng, cho cách mạng; ra sức làm việc cho Ðảng, giữ vững kỷ luật của Ðảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Ðảng; đặt lợi ích của Ðảng và của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì Ðảng, vì dân mà đấu tranh quên mình; “Ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ” (11). Trong bản Di chúc để lại trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đau đáu dặn dò: “Ðảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (12).
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam mang tầm vóc thế giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến, hy sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; cho sự nghiệp đấu tranh xây dựng một thế giới hòa bình, nhân ái và phát triển. Tư tưởng của Người là tinh hoa văn hóa của nhân loại, thấm đẫm những giá trị văn hóa của phương Ðông và phương Tây. Người tiếp thu triết lý “đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn” của đạo Phật; tư tưởng “hòa mục”, “xây dựng một thế giới đại đồng” của Nho giáo; tư tưởng “Bình đẳng, Bác ái” của Thiên Chúa giáo; chủ nghĩa “Tam dân” của Tôn Dật Tiên. Nhưng trên hết, Người tiếp thu tư tưởng cách mạng, “tất cả vì con người và sự nghiệp giải phóng loài người” của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Người là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam; những tư tưởng của Người là hiện thân khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau (13). Do đó, Tổ chức Văn hóa – Khoa học – Giáo dục của Liên hợp quốc đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc – Danh nhân văn hóa kiệt xuất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình ảnh của một bậc vĩ nhân, một lãnh tụ nhân dân kiểu mới: vĩ đại mà không cao xa; thanh cao mà vô cùng giản dị; mẫu mực và gần gũi với quần chúng, nhân dân; hết mực thương yêu đồng chí, đồng bào; hết lòng, hết sức chăm lo cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước(14). Cả đời Người chỉ có một tâm nguyện và ham muốn: “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(15). Cho đến khi phải từ biệt thế giới này, Người chỉ tiếc: “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”(16). Chính tâm nguyện và mục đích vô cùng cao đẹp ấy đã tạo cho Người một ý chí lớn lao và nghị lực vô cùng mãnh liệt để: “Giàu sang không thể quyến rũ, Nghèo khó không thể chuyển lay, Uy lực không thể khuất phục.”(17); vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, dẫn dắt Ðảng ta, lãnh đạo nhân dân ta giành những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và vững bước trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh – kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội
Ðến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, coi đó là cái “cẩm nang thần kỳ”, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin: “không phải là một giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; … không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo;… luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”(18). Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã kiến tạo nên một kho báu tư tưởng vô giá trên mọi phương diện của sự nghiệp cách mạng: về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa, giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới; về quy luật ra đời và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, xây dựng một chính đảng mác-xít ở một nước thuộc địa và phong kiến; về tập hợp, xây dựng lực lượng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một nước nông nghiệp có điểm xuất phát thấp, không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng trong sạch, vững mạnh; về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân gắn liền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa…
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua phong ba, bão táp đi đến những bến bờ thắng lợi. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mang tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; với quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, cả dân tộc Việt Nam đã anh dũng chiến đấu làm nên một Chiến thắng Ðiện Biên Phủ “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mang ý chí đanh thép: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”, toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta đã chung sức, đồng lòng tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, viết nên một bản anh hùng ca của tình ruột thịt bắc – nam và khát vọng mãnh liệt của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, không bao giờ bị khuất phục trước mọi kẻ thù. Trong mưa bom bão đạn, vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, nhân dân miền bắc vừa xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn miền nam, để toàn quân, toàn dân ta “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” lập nên những chiến công chói lọi, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam, thu non sông về một mối, mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
5. Học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh – Ðảng ta nhất định sẽ lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Người, trong công cuộc đổi mới hiện nay, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc; Ðảng ta ngày càng trưởng thành vững mạnh. Thắng lợi đó là kết quả của việc kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, kiên định đường lối đổi mới, sáng tạo để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi đó mang đến cho chúng ta niềm phấn khởi, tự hào và tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Ðảng ta, nhân tố quyết định nhất đối với những thành tựu mà đất nước ta, nhân dân ta đạt được trên mỗi chặng đường cách mạng.
Tự hào với những thành tựu đạt được, chúng ta càng ý thức sâu sắc hơn về trọng trách to lớn của mình trước các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Công cuộc đổi mới đất nước càng đi vào chiều sâu, càng khó khăn, phức tạp. Tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo. Các thế lực thù địch, phản động không ngừng tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, chống phá Ðảng, Nhà nước, và chế độ ta. Những thứ giặc nội xâm như: tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đang làm phương hại đến niềm tin của nhân dân đối với Ðảng.
Từ thực tiễn cách mạng nước ta hơn 90 năm qua, từ những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta kể từ khi có Ðảng đã cho thấy rằng: tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn là chỉ dẫn quý báu giúp toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Ðẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung lớn, quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng trong sạch, vững mạnh toàn diện của nhiệm kỳ Ðại hội XII; và xây dựng Ðảng về đạo đức trở thành phương châm quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lợi ích nhóm, tự diễn biến, tự chuyển hóa; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Ðảng. Ðiều này đang được Ðảng ta thực hiện quyết liệt, được đông đảo nhân dân tin tưởng, đồng tình và ủng hộ, nhất là trong bối cảnh toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta đang tiến hành tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng.
Ðược tiến hành vào thời điểm đất nước ta trải qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm tiến hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020, Ðại hội lần thứ XIII của Ðảng ta là dấu mốc quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai, mang khát vọng và tầm nhìn đưa nước ta trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ. Trước vận hội mới, cơ đồ mới của đất nước và dân tộc, chúng ta càng thấm nhuần sâu sắc những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, về cách học tập “tinh thần xử trí mọi việc”, quán triệt sâu sắc “chân lý phổ biến” của chủ nghĩa Mác – Lê-nin; bám sát nguyên tắc: kế thừa và phát triển, kiên định và đổi mới, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, đáp ứng đòi hỏi khách quan của đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại.
Mỗi cán bộ, đảng viên càng thấm nhuần lời căn dặn của Người về: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Ðảng” gắn liền với vận mệnh của Ðảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước; về yêu cầu “nâng cao đạo đức cách mạng”, trách nhiệm tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân, nêu gương sáng trước quần chúng nhân dân; về xây dựng một đảng cầm quyền liêm chính, trong sạch, vững mạnh, trí tuệ và bản lĩnh ngang tầm nhiệm vụ mà Tổ quốc và Nhân dân giao phó; về bài học lấy dân là gốc, nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, kết hợp sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp cách mạng.
Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”(19). Vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới của Ðảng, toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta đoàn kết một lòng, với quyết tâm, ý chí và khát vọng để lập nên kỳ tích phát triển Việt Nam, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, sánh vai với các cường quốc năm châu như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
Theo Nhân dân điện tử
Nguyễn Xuân Thắng
Bí thư T.Ư Ðảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư
(1) Tạ Ngọc Tấn, Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo khoa học kỷ niệm 100 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, ngày 17-5-2011, Hà Nội
(2) Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.1984, tr.11
(3) Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1977, tr.203
(4) Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2-9-1945
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.289
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 289
(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 290
(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15,5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 622, 309
(9) Bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Ðảng (5-1-1960), Báo Nhân Dân, số 2121, ngày 7-1-1960
(10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.292
(11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 603
(12) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 611-612
(13) Nghị quyết 24c/18.65 của Ðại hội đồng UNESCO khóa 24-1987
(14) Trần Minh Trưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ vĩ đại trọn đời hy sinh cho đất nước và hạnh phúc của nhân dân, Bài đăng trên Báo Nhân Dân điện tử, số ngày 18-5-2018
(15) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.627
(16) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 623
(17) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 50
(18) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 95
(19) Ðiếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Hồ Chủ tịch, ngày 9-9-1969