Trong thời gian qua, tỉnh Sekong đã tập trung triển khai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội theo hướng đột phá, khai thác và tận dụng các tiềm năng nhằm thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mới đây, theo báo cáo tại kỳ họp Đảng ủy tỉnh Sekong khóa X của ông Khanti Silavongsa Phó Tỉnh trưởng phụ trách kinh tế, tỉ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân của tỉnh Sekong đạt mức 4,1%/năm. Năm 2021, kinh tế Sekong tăng trưởng 3,3%, GDP đạt 2.210 tỉ Kíp; năm 2022 kinh tế tăng trưởng 4%, GDP đạt 2.534 tỉ Kíp; dự kiến năm 2023 kinh tế tăng trưởng ở mức 5%, GDP đạt 2.657 tỉ Kíp, GDP/người/năm đạt 1.143USD.
Đồng thời, Chính quyền tỉnh Sekong cũng tập trung cải tạo, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đường giao thống, phát triển hệ thống truyền tải điện đến tận khu vực vùng sâu vùng xa phục vụ nhân dân, thúc đẩy khuyến khích và phát triển phong trào sản xuất nhất là sản xuất lương thực và sản xuất hàng hóa theo tiềm năng thực tế của địa phương gắn với nhu cầu thị trường. Sản lượng lúa gạo tỉnh Sekong đạt 89.721 tấn, tương đương 38,16% kế hoạch 5 năm; sản lượng rau quả đạt 77.384 tấn, tương đương 31,78% kế hoạch 5 năm; sản xuất hàng hóa đạt 728.923 tấn, tương đương 64,32% kế hoạch 5 năm. Cụ thể, cà phê đạt 64.411 tấn, sa nhân 1.771 tấn, sắn 516.869 tấn, sâm 447 tấn, chuối 19.722 tấn, bắp cải 64.081 tấn, cải 21.101 tấn, cao su 13.420 tấn, trâu 25.871 con, bò 42.938 con, lợn 113.565 con, dê 19.735 con, gia cầm 1.130.703 con, bình quân lượng thịt, cá và trứng trên đầu người đạt 25,68kg.
Thời gian gần đây, tỉnh Sekong cũng đang có chính sách thúc đẩy các sản phẩm địa phương đạt tiêu chuẩn sản phẩm ODOP nhằm thúc đẩy công nghiệp chế biến nông sản và tạo thương hiệu đặc trưng, góp phần phát triển kinh tế xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Tổng hợp