VIẾT Ở NGHĨA TRANG
Mỗi ngôi mộ
Một ngọn nến
Đêm nay nghĩa trang thành dải Ngân hà
Hơn mười ba nghìn đôi mắt dõi nhìn xa
Các anh trở về từ những chiến trường xưa
Những cánh đồng Chum, Sầm Nưa, Long Chẹng
Dâng trọn tuổi xuân cho tình nghĩa bè bạn
Mãi thơm hơn hoa và sáng tựa trăng rằm.*
Đón các anh về sau mấy chục năm
Hàng vạn tấm bia vẫn còn không tên họ
Những chiến công mãi là cây đại thụ
Lặng lẽ ẩn mình giữa ngàn cây ngút xanh.
Ở nghĩa trang đêm nay cùng với các anh
Mỗi ngọn nến kể một điều kỳ ảo
Mỗi nén nhang thắp một ngày quên lãng
Mỗi chúng tôi khắc khoải một tâm hồn.
Từ sáng qua chiều
Ngay trước cửa nghĩa trang
Một thiếu phụ ôm ảnh chông
Mấy chục năm chờ đợi
Dải khăn tang úa vàng
Ánh mắt nghìn câu hỏi
Bao lâu anh mới trở về?
Chị ơi
Biết nói với chị điều gì
Gió cứ quẩn quanh hoài theo mỗi bước người đi
Lễ cầu siêu tại nghĩa trang Anh Sơn, Nghệ An, năm 2011
* Ý câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Xu-pha-nu-vông về quan hệ Lào-Việt
Trích từ tập thơ “Buộc vào”
Tác giả Tạ Minh Châu
ຂຽນຢູ່ສຸສານ
ຂຸມຝັງສົບແຫ່ງນີ້ ແຕ່ລະບ່ອນບູຊາ
ມີແສງທຽນລວມລູກ ແຕ່ລະຂຸມໃສແຈ້ງ
ເຮັດໃຫ້ລາຕີນີ້ ສຸສານແສງສະຫວ່າງ
ປະກາ່ຍທຽນພຸ່ງຂື້ນ ງາມພົ້ນພຸ່ງພະໂຍມ
ປຸນປຽບດາວຢູ່ຟ້າ ດາລາເປ່ງປະກາຍສີ
ແສງຕາເຮົາທັງຫຼາຍ ໝື່ນດວງດູຈ້ອງ
ສຸມໃສ່ມອງຊອມສິ້ງ ຫິງທຽນພວມຮຸ່ງ
ພຸ້ງເພື່ອຄາລະວະໄຫວ້ ວິຍານກ້າຕະຫຼອດໄປ
ພວກທ່ານກັບຈາກກ້ຳ ສະໜາມຮົບໃນລາວ
ທົ່ວໄຫຫີິນຊຽງຂວາງ ເຂດຊຳເໜືອພຸ້ນ
ລ້ອງແຈ້ງແດນສະໜາມສູ້ ຕີສັດຕູຄາວກ່ອນ
ອຸທິດໄວໜຸ່ມໃຫ້ ຄວາມພົວພັນຜູກແໜ້ນ
ສຳພັນເພື່ອນມິດສະຫາຍ
ທ່ານເປັນດວງດອກໄມ້ ມາລາໃໝ່ຫອມຫວນ
ສະຫງ່າງາມຄືເດືອນ ພຸ່ງເພັງເທິງຝ້າ
ພວກເຮົາມາໂຮມເຕົ້າ ລໍເອົາພວກທ່ານ
ກັບຄືນເມືອສູ່ບ້ານ ສະຖານເຄົ້າເກົ່າຫຼັງ
ຫຼາຍສິບປີຢູ່ໃຕ້ ພະລານແຜ່ນຫີນໜາ
ຝາສີລາບໍ່ມີນາມ ຊື່ສະກຸນສະຫຼັກໄວ້
ບັນດາວິລະກຳໄດ້ ໂຮມກັນຊົນຮົ່ມ
ຕົ້ນໄມ້ໃຫຍ່ກາງດົງ ຄົງຕົວໃນປ່າໄມ້
ສະຫງົບນິ້ງເຍືອກເຢັນ ແທ້ນາ
ຢູ່ສຸສານຄືນຄ່ຳນີ້ ພວກເຮົາຮ່ວມຊີວິດ
ຮ່ວມຈິໃຈວິນຍານ ຢູ່ທຽນຕາມໄຕ້
ໄຟທຽນຈະຈາເວົ້າ ປະໂລມຕາມຖາມຖະແຫຼງເລົ່າ
ສິ່ງມະຫັດສະຈັນຢູ່ເຈົ້າ ທະຫານກ້າລູກປະຊາ ດອກນາ
ແນມເຫັນເອື້ອຍແມ່ໝ້າຍ ຄົນໜື່ງຢືນຖື
ຮູບຜົວນາງລໍຄອຍ ຫ່ວງຫາຄີຄ້ອຍ
ຢືນແຕ່ຍາມຍັງເຊົ້າ ຈົນເຖິງຍາມບ່າຍ
ກາຍຍາມແລງຄ່ຳຄ້ອຍ ຄອຍອ້າຍບໍ່ຕ່າວຄືນ ນີ້ນໍ
ຫຼາຍສິບປີບໍ່່ຮູ້ ບໍ່ເຫັນຂ່າວຫຍັງໝົດ
ໄວ້ທຸກມານານປີ ແຕ່ບໍ່ມີໃຜຮູ້
ໄວ້ທຸກມາຈົນຜືນຜ້າ ແພໝອງໝາງເກົ່າ
ຮອຍຂາດສີໂສກເສົ້າ ເຫຼືອງມ້ານໝົ່ນໝອງ
ສາຍຕານາງຄືດັ່ງຕັ້ງ ຄຳຖາມນັບພັນໆ
ປານໃດນໍຜົວແພງ ຮັກປານຊິກືນໄດ້
ຈະກັບຄືນມາບ້ານ ມາເຮືອນຄືເກົ່າ ເຮົາເດ
ໂອນໍ ເຫັນແຕ່ຄວາມໂສກເສົ້າ ເຫງົາແຄ້ນຊິຂາດໃຈ ນີ້ແລ້ວ
ເອື້ອຍເອີຍ ນ້ອງບໍ່ຮູ້ ຈະເວົ້າວ່າແນວໃດ
ມັນຄັດຄາຄຸງຄໍ ບໍ່ກ່າວຂານໄຂໄດ້
ວິນຍານຜົວຄົນກ້າ ຄົງມາຢືນຄຽງຢູ່
ກະຕັນຍູຍອດແກ້ວ ແນວເມຍດີດັ່ງເອື້ອຍ
ອ້າຍຄົງເຊົາເມື່ອຍແລ້ວ ບໍ່ມີແກ້ວຮັກນິລັນ ແທ້ແລ້ວ
ສຸສານເມືອງແອັງເຊີນ, ແຂວງເຫງ້ອານ ປີ 2011
*ຕາມເນື້ອໃນໃຈຄວາມເວົ້າຄວາມໜື່ງຂອງທ່ານປະທານສຸພານຸວົງກ່ຽວກັບສາຍພົວພັນ ລາວ-ຫວຽດ
Về nhà thơ Tạ Minh Châu:
Nhà văn, nhà thơ Tạ Minh Châu quê quán tại Việt Trì, Phú Thọ, ông nguyên là Phó Trưởng ban đối ngoại Trung ương; nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Lào và Ba Lan; Phó Chủ tịch Trung ương Hội hữu nghị Việt Nam – Lào; Phó Chủ tịch Trung ương Hội hữu nghị Việt Nam – Ba Lan; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam; Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội.
Một số cảm nhận về tập thơ song ngữ Việt – Lào của nhà thơ Tạ Minh Châu:
“Những bài thơ của Nhà thơ từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong nhiều năm đã thể hiện một cách sâu sắc, sinh động, chân thực mối quan hệ liên minh đặc biệt gắn bó keo sơn giữa nhân dân hai nước đồng thời cũng thể hiện tình cảm và sự cảm nhận sâu sắc xuất phát từ đáy lòng của tác giả”.
Thủ tướng Thongloun Sisoulith
“Hai mươi bài thơ trong tập thơ của Nhà thơ Tạ Minh Châu giống như một bản ghi chép về cuộc hành trình của Ông qua các tỉnh của đất nước Lào để thực hiện trọng trách của một nhà ngoại giao. Nhiều bài thơ vết về phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp của các địa phương, về kết quả nổi bật trong phát triển kinh tế – xã hội của từng vùng cũng như những nét điển hình về mặt văn hóa của nhân dân các dân tộc Lào dưới chế độ Dân chủ nhân dân.
Đồng thời nhiều bài thơ khác cũng nói lên tình hữu nghị sâu đậm, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa nhân dân hai nước Lào và Việt Nam trước đây cũng như hiện nay.
Những bài thơ này cho thấy Đại sứ Tạ Minh Châu là một nhà ngoại giao và là một nhà thơ uyên bác về tình hữu nghị vốn có truyền thống lâu đời giữa nhân dân hai nước Lào và Việt Nam chúng ta”.
Giáo sư, tiến sỹ Bosengkham Vongdala,
Bộ trưởng Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch Lào