Đào Văn Tiến
Từ năm 1942 đến 1945, tôi học ở trường tiểu học Anh Sơn (Nghệ An). Trong thời gian này, tôi thường được nghe kể chuyện về các hội kín, về những người yêu nước, về chuyện Đội Cung khởi nghĩa, tôi rất cảm phục họ. Trong đó tôi thích nhất chuyện kể về bác Nguyễn Tài, quê ở làng Vĩnh Đức (tổng Đô Lương) gần bến phà Đô Lương, hoạt động cộng sản bị Pháp bắt bỏ tù, phải trốn sang Xiêm, sang Lào.
Sau này tỉnh Nghệ An giành chính quyền, được tin bác Tài được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời, tôi rất phục bác, coi bác như một vị anh hùng.
Đặc biệt là từ ngày tôi được chuyển về công tác tại Phân khu B – Đoàn 81, được cử làm Trưởng ban cung cấp, lo hậu cần cho các đơn vị tình nguyện hoạt động tại Xiêng Khoảng, cũng như cung cấp mọi thứ cho cán bộ, chiến sĩ và gia đình của các đồng chí Lào, tôi được gần gũi với bác Tài, hiểu nhiều về bác, có nhiều câu chuyện tôi nhớ mãi suốt đời không quên, nhất là những chuyện quan hệ với cán bộ, nhân dân các bộ tộc Lào và Mông.
Bác Tài gặp Thầu Chín
Vào khoảng những năm 1928-1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc dưới cái tên Xiêm giản dị “Thầu Chín” (Già Chín, Ông Chín, Cụ Chín) đã sang nước Xiêm (Thái Lan) nghiên cứu tình hình nhân dân và giới lao động Xiêm cũng như người Việt sống ở đất Xiêm. Bác Tài được phân công đưa Thầu Chín đến một số tỉnh ở vùng đông bắc Xiêm để nắm tình hình. Trong một số chuyến đi, Thầu Chín đã vượt qua đất Xiêm vào đất Lào ở tỉnh Chăm-pa-sắc, có lần đã vượt sông Mê Kông lên đến Thà Khẹt.
Trong thời gian gần gũi Thầu Chín, bác Tài đã tiếp thu được chủ nghĩa cộng sản, giác ngộ cách mạng và tham gia Đảng Cộng sản Thái Lan, tích cực hoạt động trong tổ chức giúp đỡ cách mạng Lào và cách mạng trong nước, đó là tổ chức Đông Dương Viện trợ bộ. Sau khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh bị khủng bố, Đông Dương Viện trợ bộ đã giúp các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập Xứ ủy Lào vào năm 1934.
Về tình cảm giữa Thầu Chín và bác Tài thời đó rất thân mật. Hai người vừa là “đồng hương Nghệ An” vừa cùng chí hướng. Bác Tài được Thầu Chín coi như em. Thầu Chín thường gọi bác Tài một cách âu yếm, thân mật là “Chú Thụn”. Theo tiếng Nghệ An “Thụn” là người vừa béo vừa lùn. Chú Thụn là chú em béo lùn.
Sau này, khi gặp lại nhau ở Việt Bắc, cũng như ở Hà Nội, Bác Hồ vẫn gọi bác Tài là chú Thụn một cách thân mật. Bác Hồ vẫn nhớ cái biệt tài của chú Thụn là giỏi Hán văn, thuộc làu sách Tam quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc, Thủy hử. Khi rỗi rãi, gặp nhau hai người thường hay bàn luận thời thế và các nhân vật trong các cuốn sách này.
Bác Tài và các thủ lĩnh người Mông ở Xiêng Khoảng
Năm 1947, sau khi đồng chí Ngô Vân Anh(1) từ trần, đồng chí Trần Đức Vịnh (2) hy sinh trong trận máy bay Pháp oanh tạc, Liên khu ủy Liên khu 4 điều bác Tài về làm Trưởng phòng Biên chính. Địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng có vị trí chiến lược rất quan trọng. Ở đây có cao nguyên Cánh Đồng Chum – một cao nguyên mà theo các chiến lược gia quân sự thì bên nào kiểm soát được thì sẽ làm chủ được miền Thượng Lào và uy hiếp cả bắc Việt Nam.
Địa lý quân sự đã vậy, Xiêng Khoảng còn có yếu tố con người. Với đặc điểm là dân tộc Mông (trước đây gọi là dân tộc Mẹo) chiếm đến 40% dân số toàn tỉnh. Trong âm mưu của đế quốc Pháp, chúng dùng chính sách lôi kéo người Mông chống phá cách mạng, thực hiện khẩu hiệu chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Lào đánh người Lào – người Mông làm lực lượng xung kích phá hoại cách mạng Lào, gây chia rẽ thù hằn giữa các dân tộc kể cả Việt Nam.
Nhìn vào lịch sử, đế quốc Pháp đã thực hiện có kết quả việc lôi kéo một tù trưởng họ Lầu là Blia Dao với chức vụ chỉ là nai tà xẻng(1) nhưng quyền lực coi như chúa tể vùng Mông. Thực dân Pháp đã lôi kéo và dùng Blia Dao trong việc đàn áp phong trào nổi dậy chống Pháp của nhân dân Mông ở vùng Xiêng Khoảng do Chậu Phạpắtchây (2) lãnh đạo.
Để nắm Blia Dao lâu dài, tên công sứ Pháp Brathélemy – một trùm thực dân cáo già ở Xiêng Khoảng đã kết nghĩa anh em với nai tà xẻng Blia Dao và hứa sẽ cho con cái Blia Dao giữ quyền thế tập. Để củng cố quyền lực, Blia Dao đã cho con rể là Lý Phụng làm xá miễn (tức thư ký).
Song thời thế đổi thay, mâu thuẫn giữa anh rể và em vợ xuất hiện dẫn đến mâu thuẫn giữa hai dòng họ Lầu, Lý. Khi Blia Dao chết, Pháp lấy lý do Phay Đang – con trai của Blia Dao không có trình độ học vấn không thể làm nai tà xẻng được mà cử Tu Bi – con trai của Lý Phụng lên thay. Mâu thuẫn nảy sinh gay gắt, lực lượng của họ Lầu tìm cách chống lại.
Cơ hội đến vào lúc phát xít Nhật đảo chính lật đổ Pháp trên toàn Đông Dương ngày 9/3/1945. Lực lượng dòng họ Lầu theo Phay Đang ủng hộ Nhật truy lùng tàn quân Pháp và anh em họ Lý theo Tu Bi chạy vào rừng lẫn trốn.
Nhưng rồi Nhật bại trận. Đồng minh vào Lào tước khí giới Nhật. Pháp dựa vào Đồng minh, thu thập quân đội, trở lại chiếm Lào và vào Xiêng Khoảng. Phe thân Pháp lại trả thù phe thân Nhật. Để tránh sự trả thù, lực lượng của dòng họ Lầu liên kết với dòng họ Giàng tổ chức chống lại lực lượng Tu Bi và về khách quan là chống lại thực dân Pháp xâm lược.
Thời kỳ này, sau khi nước Lào tuyên bố độc lập ngày 12/10/1945, ở tỉnh Xiêng Khoảng chưa giành được chính quyền cách mạng. Tàn quân Pháp dựa vào lực lượng Tu Bi lập lại chính quyền thực dân. Lực lượng Phay Đang, Tho-tu kéo vào rừng dùng phương thức đánh du kích để bảo toàn lực lượng và tìm cách phát triển sức mạnh để bảo vệ gia đình, dòng họ. Nhưng vì lực lượng mỏng, đoàn quân và toàn bộ gia đình cứ lùi dần, lùi dần về phía đông giáp biên giới Việt Nam.
Chính trong bối cảnh ấy, Phòng Biên chính Liên khu 4 do bác Tài chỉ đạo đã đề nghị và được Liên khu ủy Liên khu 4 ủy quyền tiếp xúc, tiếp nhận lực lượng của Phay Đang, Tho-tu, mở ra sự liên minh chính thức giữa hai lực lượng Lào và Việt trên chiến trường Xiêng Khoảng.
Trong điều kiện ở Lào chưa có cơ sở, lực lượng Pháp phát triển chiếm toàn bộ tỉnh Xiêng Khoảng; để ổn định lực lượng của phía Lào, bác Tài đã đề nghị đưa toàn bộ các gia đình vào địa bàn huyện Tương Dương và đã được Tỉnh ủy Nghệ An chấp thuận.
Tháng 7/1947 dòng họ Lầu theo ông Phay Đang vào dựng bản lập căn cứ bàn đạp ở vùng Phù Quạt – Khe Kiền bên đường số 7, cách Mường Xén vài chục kilômét. Các gia đình và lực lượng dòng họ Giàng của ông Tho-tu kéo sang Mường Lống cũng thuộc huyện Tương Dương – Nghệ An xây dựng các cụm dân cư. Tất cả đều sản xuất lương thực để tự túc và trồng cây anh túc đảm bảo nhu cầu cuộc sống và củng cố lực lượng du kích để về Lào hoạt động. Công việc từ đây nảy sinh nhiều quan hệ mới, nhiều vấn đề mới.
Trước hết là việc kết nghĩa anh em giữa bác Tài và anh em ông Phay Đang, Nhia Vư với Lô Phụng; giữa đồng chí Ngô Thế Sơn cùng bác Tài với ông Tho-tu.
Có lần bác Tài đến gặp ông Phay Đang lúc ông đang hút thuốc phiện. Ông Phay Đang đưa độc tấu cho bác Tài. Bác Tài cầm độc tấu,nằm đối diện với ông Phay Đang. Lúc này ông Phay Đang đang “phê”, bác Tài đặt độc tấu rồi nằm yên chờ đợi. Khi ông Phay Đang tỉnh dậy, hai người vừa nằm vừa trao đổi công việc với nhau. Bên ngoài có người trông thấy, hôm sau tin bác Tài cùng ông Phay Đang kết nghĩa với nhau để hút thuốc phiện được loan truyền. Dư luận cho rằng như vậy bác Tài vừa mất lập trường (kết nghĩa với tù trưởng dân tộc Mẹo) vừa sa vào con đường hút xách, nghiện ngập.
Bác Tài nghe tin vội triệu tập cán bộ đoàn đến để định hướng dư luận. Bác Tài nói: – Tôi nằm bàn đèn cùng ông Phay Đang là vì công việc chứ không phải hút thuốc phiện, nhưng nếu phải hút thuốc phiện để kéo được cả một bộ tộc làm cách mạng thì tôi cũng phải chịu kỷ luật với tổ chức, với Đảng. Còn việc kết nghĩa thực chất là lập trường của Đảng, Bác Hồ như chúng ta đã biết (cũng có nhiều người chưa biết). Bác đã kết nghĩa anh em với cụ Vương Chí Sình – vua Mèo ở Hà Giang. Với các dân tộc ít người, tù trưởng là người lãnh đạo cao nhất, được dân tin yêu nhất. Dân coi họ như vua, như chúa, dân một lòng nghe theo, phục tùng họ. Nếu ta nắm các tù tộc trưởng coi như đã nắm được cả thị tộc bộ lạc, bộ tộc. Đây là vấn đề có tính chiến lược, anh em ta cần hiểu rõ, hiểu đúng, không nên máy móc về lập trường giai cấp.
Việc bác Tài hút thuốc phiện vừa dịu đi thì lại nảy sinh việc đội du kích của ông Tho-tu hút thuốc phiện. Tôi đã chứng kiến lần đầu tiên khi đến đội này phát quân trang quân dụng cho họ. Hôm đó tập trung được trên 60 người, già có trẻ có, cả thiếu niên 12-13 tuổi. Họ đến tập trung với áo quần đen dân tộc, đặc biệt là khi chờ đợi, họ túm tụm vào nhau quanh bếp lửa hút thuốc phiện. Trước tình cảnh này tôi rất thất vọng, trông họ như một đội quân ô hợp.
Tôi về cơ quan báo cáo bác Tài sự việc này và nói lên suy nghĩ của mình, “Liệu đội vũ trang của ông Tho-tu có thực sự là đội vũ trang đáng tin cậy?”
Bác Tài nói với tôi: Nếu đó là đội vũ trang của ta thì ta không bao giờ chấp nhận. Nhưng với đội quân của ông Tho-tu, đội vũ trang cách mạng của Xiêng Khoảng, của dân tộc Mông thì đó là chuyện thường.Người Mông có tập quán hút thuốc phiện như ta ăn cơm, trẻ, già, đàn bà đều hút. Thai nhi trong bụng mẹ cũng đã sống với thuốc phiện. Thuốc phiện là nguồn kinh tế quan trọng của gia đình. Thuốc phiện để hút và để bán. Người Mông đi làm cách mạng, nếu phải bỏ thuốc phiện thì chắc là họ không làm. Sau này giác ngộ dần, kinh tế có sự phát triển, có cây khác thay thế cho cây anh túc thì chắc là họ sẽ không trồng, không hút nữa. Vậy nên, với trách nhiệm là Trưởng ban cung cấp, đồng chí cần nghiên cứu cách tiêu thụ thuốc phiện cho họ. Còn việc họ hút thì cũng như họ ăn cơm, uống nước, miễn là họ tích cực cùng ta hợp tác đánh Tây. Sức mạnh của 60 người mà đồng chí coi là đội quân ô hợp trên thực tế chiến trường, trong đánh du kích, vận động dân Mông vào tổ chức đoàn kết sản xuất chiến đấu có khi hơn cả mấy Đại đội tình nguyện Việt Nam đó.
Tôi im lặng lắng nghe bác Tài. Thực sự thấm thía những điều tâm huyết của bác.
Về sau, tình hình cơ sở đã phát triển đến vùng Loong Mộ, Thảm Tạt, Pa Kha, phát triển sâu đến vùng Sảm Chè xuống lòng chảo Mường Mộc thành một hành lang an toàn, có những trạm nghỉ cho bộ đội ta qua lại hoạt động, tôi càng cảm phục nhãn quan chiến lược của bác Tài. Đội du kích Tho-tu đến năm 1950 đã đổi tên thành đội vũ trang Pat-chay, chính thức đứng trong hàng ngũ Quân đội giải phóng nhân dân Lào.
Tháng 8/1950, trong Đại hội Mặt trận Lào Ítxala, ông Phay Đang được cử làm Phó Chủ tịch đại diện cho khối dân tộc Lào Sủng. Sau giải phóng Xiêng Khoảng tháng 5/1953, ông Nhia Vư (em ông Phay Đang) làm Ủy viên Ủy ban kháng chiến tỉnh Xiêng Khoảng. Ông Tho-tu là Ủy viên quân sự, Chỉ huy trưởng Đại đội Pat-chay.
Sau Chiến dịch Thượng Lào năm 1953, vấn đề người Mông lại nổi lên ở tỉnh Sầm Nưa, với những tổ chức phỉ nổi tiếng phá hoại cách mạng ở căn cứ địa trung ương Sầm Nưa như ở Pa Thí, Huội Thầu, Hồng Nôn, Phù Chỏm Cụp, Phù Chích Nu và sau đợt tiễu phỉ tập trung đánh vào Pa Thí không thành công, Bộ Tư lệnh Mặt trận Thượng Lào đã điều động bác Tài lên làm Ủy viên Ban cán sự Đảng đặc trách công tác thuphục phỉ và vận động nhân dân Lào Sủng kêu gọi con em rời bỏ hàng ngũ địch về với cách mạng, về với nhân dân.
Bác Tài – ông mối mát tay
Trong thời gian ở Phân khu B – Đoàn 81, bác Tài còn là ông mối mát tay. Bác đã giới thiệu và tác thành cho nhiều cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị nên vợ thành chồng.
Có thể kể ra đây những cặp uyên ương kết tóc xe tơ từ thuở đầu xanh gian khổ đến nay đã đầu bạc răng long mà vẫn vững bền hạnh phúc cùng con cháu. Đó là cặp Hồ Duy Tiếu và Nguyễn Thị Thu, Lê Văn Xương và Hoàng Thị Huệ, Trần Thế Phương và Nguyễn Thị Thanh, Đỗ Văn Quân và Nguyễn Thị Nương, Vũ Quốc Kinh và Nguyễn Thị Mạnh… Các anh đều là cán bộ trung Đại đội, chưa vợ; các chị đều là nữ học sinh Việt kiều ở Thái Lan theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc về Việt Nam tham gia Bộ đội tình nguyện ở trong Tiểu đội dân vận ở Xiêng Khoảng. Cố nhiên, tình yêu trước hết ở hai người, nhưng trong một đại gia đình quân đội, đơn vị làm nhiệm vụ quốc tế biết bao gian khổ hy sinh mà các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy biết quan tâm đến hạnh phúc lứa đôi, điều đó đáng quý biết bao.
Trong số đó có một đôi do đồng chí Ngô Thế Sơn tác thành nên duyên chồng vợ và sau này được bác Tài dày công vun đắp có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó vượt ra ngoài khuôn khổ một cuộc kết duyên thắt chặt mối quan hệ đoàn kết liên minh giữa hai lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam ở Xiêng Khoảng và lực lượng kháng chiến người Mông.
Đó là cuộc kết duyên giữa đồng chí Việt Sơn Hùng – chỉ huy trưởng đội vũ trang công tác trên các bản làng Mông với cô em gái yêu của ông Tho-tu, người chỉ huy lực lượng vũ trang mang tên Pat-chay nổi tiếng. Chấp nhận cuộc hôn nhân đặc biệt này, hai bên coi như đã ký kết với nhau một thỏa ước của tình hữu nghị keo sơn gắn bó đời đời bền vững.
Trong quá trình chung sống, cặp vợ chồng Việt – Mông phải vượt qua bao nhiêu trở ngại về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục tập quán đến sự ứng xử trong gia đình, dòng họ, bản làng, nhất là về phía anhViệt Sơn Hùng, coi như anh phải làm rể cả một bộ tộc, ăn ở sao cho vừa lòng người.
Một lần, do mâu thuẫn vợ chồng, anh Hùng xử sự không khéo, suýt nữa tình yêu tan vỡ, nghiêm trọng hơn là suýt nữa xảy ra oán thù. Trong lần ấy, hai vợ chồng to tiếng, anh Hùng không kiềm chế được cơn nóng nảy đã đẩy vợ một cái, làm chị mất thăng bằng suýt ngã. Chị chạy về nhà nói với anh em bà con. Mọi người cho là Việt Sơn Hùng đã xúc phạm đến dòng họ và bộ tộc Mông nên mang súng kéo đến tìm bắt Việt Sơn Hùng để trị tội.
May thay bác Tài biết được sự việc, đã thân chinh tìm gặp ông Tho-tu và các ông Phay Đang, Nhia Vư cùng các già làng, trưởng bản và các tộc trưởng xin lỗi, nói rõ đó chỉ là sự nóng tính, xử sự không khéo chứ không cố tình xúc phạm đến dòng họ, bộ tộc và bắt Việt Sơn Hùng mang rượu đến tạ lỗi, xin vợ và mọi người tha thứ. Thế là bác Tài đã hòa giải được và tình thân lại thêm thân.
Sau này, con cái vợ chồng đồng chí Việt Sơn Hùng đều trưởng thành tiến bộ. Tôi có quen một anh con trai đồng chí Hùng tên là Xỉnh Thoong (tên tiếng Việt là Cường). Xỉnh Thoong tốt nghiệp khóa 24 trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau một thời gian công tác đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Sử học với đề tài: “Mối quan hệ đặc biệt Lào – Việt Nam, nhân tố và quy luật thắng lợi của cách mạng hai nước Lào cũng như Việt Nam”.
Gặp lại bác Tài ở Sầm Nưa
Tháng 7/1953, sau Chiến dịch Thượng Lào, tôi được Bộ Tư lệnh Mặt trận Thượng Lào điều về nhận công tác tại Phòng Tham mưu với chức vụ Trưởng ban Quân lực.
Tỉnh Sầm Nưa được giải phóng, đang trong thời gian xây dựng chính quyền, củng cố cơ sở nhân dân. Địch sau một thời gian móc nối với bọn phản động địa phương đã tổ chức được một lực lượng chống phá cách mạng mà ta quen gọi là thổ phỉ, biệt kích. Những vùng cư dân Mông quanh thị xã Sầm Nưa và trong địa bàn huyện Mường Sầm, phỉ kiểm soát hầu hết các điểm cao, uy hiếp thường xuyên thị xã, tổ chức phục kích trên các tuyến giao thông. Chúng còn liều lĩnh tập kích vào cả những nơi ta đóng quân hoặc nơi để kho tàng, thậm chí cả trạm xá, tình hình hết sức căng thẳng.
Bộ Tư lệnh chủ trương mở một chiến dịch tiễu phỉ, dùng lực lượng mạnh tập kích vào các sào huyệt quan trọng của chúng ở Pa Kha, Hồng Nôn, Phù Chỏm Cụp, Phù Chích Nu và nhất là vị trí đầu não của chúng ở Pa Thí; đồng thời mở các mũi vũ trang tuyên truyền, dùng các biện pháp giáo dục các gia đình có con em đi theo phỉ, vận động họ bỏ hàng ngũ phỉ về với nhân dân, phát động quần chúng vạch tội ác của bọn đế quốc và bọn phản động đầu sỏ, gian ác; tổ chức nhân dân tham gia các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Lào Ítxala; dùng kinh tế làm đòn bẩy hỗ trợ cuộc đấu tranh, đem muối, vải, thuốc men và các thứ cần thiết cứu trợ dân trong vùng phỉ khống chế.
Cuối năm 1953, ta huy động một tiểu đoàn tiến công tiêu diệt sào huyệt phỉ ở Pa Thí. Trận đánh này, đồng chí Trung đoàn trưởng An Giao làm đốc chiến, đồng chí Lê Bính trực tiếp chỉ huy.
Trong đợt tiêu phỉ này, tôi là phái viên của phòng Tham mưu, trực tiếp đi nghiên cứu tại chiến trường về tổ chức, biên chế, trang bị của các đơn vị chiến đấu vùng rừng núi mà đối tượng tác chiến là những toán phỉ khoảng từ 20 đến 30 tên. Chúng sống trong dân, thực hiện chiến thuật tiếp cận trực tiếp bộ đội ta để đánh. Thủ đoạn chúng thường dùng là ăn mặc như dân địa phương ra sát đường, gặp bộ đội ta, nhất là bộ đội chủ lực, chúng đưa tay bắt tay, miệng thì “Xăm bai, xăm bai”, có người còn xin thuốc chữa bệnh, xin muối ăn, nhưng khi quân ta vừa đi qua thì chúng quay vào rừng lấy súng bắn vào quân ta từ phía sau lưng. Thiệt hại là không tránh khỏi, mà chủ lực ta thì không phân biệt được đâu là phỉ đâu là dân.
Sau khi ta phá tan sào huyệt Pa Thí, nói là tiêu diệt sào huyệt cũng được, vì quân ta chọc thẳng vào nơi chúng lập đồn trại, phá hủy nhiều dụng cụ chiến tranh, lấy được nhiều máy thông tin, dược, thuốc men, thực phẩm, nhưng diệt địch tại chỗ thì không, tù binh không bắt được. Trận đó, thực chất ta chỉ đánh tan mà không tiêu diệt được lực lượng của chúng và chúng lại tiếp tục chống lại ta. Bằng chứng là trên con đường quân ta hành quân ra vùng căn cứ, ta đã vướng phải mìn và bị chúng bắn lén gây thương vong.
Ta kịp thời rút kinh nghiệm chuyển sang vận động chính trị, tổ chức nhân dân, lôi kéo tranh thủ tù trưởng, tộc trưởng. Bác Tài được Ban cán sự Thượng Lào cử đi chỉ đạo việc thu phục phỉ. Bác thực sự là một cán bộ có nhiều kinh nghiệm công tác vận động quần chúng nhân dân và bộ tộc Mông. Một đêm, tôi từ bản Hua Xiềng về thị xã Sầm Nưa, từ chối bảo vệ do đồng chí Hoàng Ngọc Sơn – Đại đội trưởng Đại đội 238 bố trí nhằm bảo đảm an toàn cho tôi về cơ quan Bộ Tư lệnh. Tôi quyết định đi một mình với ý nghĩ: đi một mình trong đêm dễ xoay xở hơn, dễ tránh địch, tránh phỉ vì đỡ lộ bí mật. Hơn nữa, đoạn đường từ Hua Xiềng về thị xã lúc xế chiều bọn phỉ vừa phục kích gây thiệt hại cho một đơn vị bộ đội của bạn.
Thật bất ngờ, dọc đường tôi lại gặp bác Tài. Lúc ấy, khoảng 10 giờ đêm. Trời tối đen, vắng lặng, tôi men từng bước thận trọng bên vệ đường phủ đầy cỏ rậm. Chợt nghe tiếng vó ngựa chầm chậm gõ móng xuống nền đường đá nghe lộp cộp đều đều. Tôi dừng lại, ngồi thụp xuống nghe ngóng, tay nâng khẩu thompson lên vai sẵn sàng đối phó. Tôi im lặng chờ đợi, phía trước một người xách khẩu cạcbin nhẹ bước, phía sau, trên lưng ngựa một người đàn ông ngất ngưởng. Con ngựa thủng thẳng bước về phía tôi, sau lưng họ không một bóng người đi theo.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện. Lắng tai nghe, rõ ràng là tiếng Nghệ An trọ trẹ, tôi nhận ra đúng là tiếng bác Tài nói với cậu Bật – cần vụ kiêm bảo vệ của bác.
Mừng rỡ tội cất tiếng: – Bác Tài, bác Tài! Chú Bật, chú Bật.
Bật dừng chân, con ngựa nhấp nhổm, bác Tài hỏi:
– Ai đó?
– Tôi Đào Tiến, Đào Tiến phân khu B đây!
Bác Tài xuống ngựa, ngạc nhiên:
– Cậu đi một chắc (một mình) à? Gan rứa!
Tôi trả lời: – Đi một chắc an toàn hơn vì dễ tránh địch. – Tôi hỏi bác Tài: – Hai bác cháu đi đâu giữa đêm hôm khuya khoắt thế này? Lúc chiều bọn phỉ vừa mới phục kích đánh một đơn vị bạn đi tuần đoạn giữa Hua Xiềng và thị xã, bác không nghe tin à?
Bác Tài nói: Chính vì việc ấy mà mình với Bật đi lên mấy bản Mèo đêm nay để nói chuyện với các tù trưởng và các già làng, khuyên họ giúp đỡ cách mạng, ủng hộ Ítxala. Cần nhất là nhận rõ âm mưu thâm độc của bọn Pháp chia rẽ gây mâu thuẫn giữa các bộ tộc, chia rẽ Việt – Lào.
Tôi lo lắng hỏi: Chỉ hai bác cháu lên đó, không sợ bọn phỉ làm hại à?
Bác Tài cười:
– Tù trưởng của họ nhắn, nếu lên một mình, không có quân đội đi theo thì họ sẵn sàng theo ông Xuphanuvông, theo ông Phay Đang chống Pháp. Mình phải lên ngay kẻo chậm lỡ mất cơ hội. Người Mèo đã hứa là làm đúng. Thôi mình đi đây.
Bác Tài và Bật đi lên phía trước, còn tôi đi về thị xã Sầm Nưa. Nghe tiếng vó ngựa đều đều trên đá mà lòng tôi trào lên sự cảm phục. Chú Thụn em của Bác Hồ là người như thế đó!
Sau ngày hòa bình lập lại, tôi trở về Hà Nội. Một lần, được anh Trần Tiến Anh – con trai đồng chí Trần Tố Chấn (tức Ngô Vân Anh) – Trưởng phòng Biên chính của Liên khu 4 dẫn đến nhà bác Tài ở phố Hòa Mã thăm bác. Lúc này bác đã là một ông cụ trên 80 tuổi, hai mắt bị mù. Tôi nhắc lại chuyện cũ, bác Tài nhận ra tôi. Bác rất vui khi cùng tôi ôn lại chuyện những năm tháng cùng chiến đấu trên đất nước Lào. Với bác cũng như với tôi, đó là những ngày đẹp đẽ đáng nhớ nhất.
Bác nói: Vui nhất là các cháu người Mông (Lào) con của những đồng chí bên Xiêng Khoảng được sang Việt Nam học thường đến thăm hỏi bác.
Tổng hợp