(Hà Nội, Ngày 18/12/2019)
Rạng sáng ngày 18/12/ 1971, khi sương mù còn đang phủ kín Cao nguyên Cánh Đồng Chum, vạn vật vẫn đang chìm trong giấc ngủ. Chỉ có những những người lính Tình nguyện đang bất động dõi mắt về phía địch. Đúng giờ “G” những tiếng đpa to nhỏ đã phá tan sự tĩnh lặng của núi rừng Xiêng Khoảng. Hàng loạt cầu vồng lửa như một bầy rồng đỏ đan chéo nhau tầng tầng, lớp lớp bay qua đầu chúng tôi, liên tục và liên tục,…sáng rực cả bầu trời. Đất rung lên bần bật… Những bầy rồng đó nối đuôi nhau tới tấp trùm lên tất cả các cao điểm của địch như Phu Keng, Phu Tâng, đồi Coong le, bản Tôn, 1316, Phai Khanh… toàn Cao nguyên chao đảo bởi những chùm đạn pháo 122,130 ly, của H12, ĐKB. Lần đầu tiên từ khi vào chiến trường tôi được chứng kiến sự hiệp đồng Quân binh chủng quá lớn. Không những vậy, chiến dịch này còn có cả hỏa tiễn Ka Chui Xa của Liên xô. Thật sự hoành tráng vượt quá mức tưởng tượng của những người lính trẻ chúng tôi.
Những Cựu chiến binh Quân tình nguyện c11 còn lại đau chiến tranh gặp mặt thường niên tại Bắc Giang 18/12/2019
Với phương châm “Hỏa khí phân tán, hoả lực tập trung” của toàn mặt trận, của các sư đoàn chủ lực 312,316 cùng các trung đoàn 866,335 và các tiểu đoàn pháo mặt đất, pháo phòng không, tiểu đoàn 195 xe tăng từ khắp các hướng đồng loạt dồn dập khai hỏa. Tiếp đó là những tiếng gầm rú của xe tăng T34, T54, xe bọc thép K63 vừa tiến, vừa nhả đạn vào những mục tiêu đã xác định. Sau này nhiều người nói: “Ai không được chứng kiến sự hiệp đồng Quân binh chủng mở màn chiến dịch Z giải phóng CĐC – Xiêng Khoảng thì chưa hẳn lính Coong tháp Việt Nam ở chiến trường Bắc Lào”. Đúng như vậy, toàn cảnh lúc mở màn chiến dịch thật hùng tráng, không khác gì những thước phim trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Hồng quân Liên Xô với những đòn sấm sét trút xuống đầu quân phát xít Đức trong Thế chiến 2.
Tại sát cứ điểm Phai Khanh, nơi c11 d3 cùng c2 d1 trung đoàn 174 đang áp sát mục tiêu sẵn sàng đợi lệnh xung phong. Được biêt, đây là nơi địch bố trí một số phân đội thiện chiến của lính phỉ Vàng Pao và một số đơn vị lính đánh thuê Thái Lan. Sau khi hỏa lực của ta bắn cấp tập vào các mục tiêu của địch, là sự hoảng hốt, là sự la hét và sau đó là tìm đường tháo chạy, là cơ hội để các đơn vị của ta truy kích. Vừa quan sát, vừa hồi hộp, vừa háo hức xen lẫn niềm kiêu hãnh về sức mạnh tổng lực của quân ta, niềm tin tất thắng lợi của chiến dịch như tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi. Đúng theo hiệp đồng, khi hỏa lực mặt trận đã chuyển làn, tất cả các hướng đồng loạt xung phong. Phối thuộc với c11 là hai chiếc xe tăng T34 và một chiếc K63 của Tiểu đoàn xe tăng 195 tăng cường do ung uý đại đội trưởng Vũ Tiến Căn chỉ huy. Đội hình đơn vị chia làm hai mũi tấn công, một mũi do đại đội trưởng Bài và chính trị viên phó Cương, một mũi do chính trị viên Then và đại đội phó Ghẻ chỉ huy cùng lao lên. Trong lúc hành tiến, không may một chiếc xe tăng trúng mìn địch, đứt xích phải dừng lại, nhưng nòng pháo 85ly vẫn tiếp tục phát huy hết khả năng nã đạn về phía địch chi viện cho bộ binh xung phong. Toàn bộ mũi chủ công của c11 bám theo, vận động tấn công kết hợp với sức mạnh cản lướt của xe tăng, truy kích tiêu diệt quân địch đang tháo chạy. Chiếc xe tăng còn lại như con báo xám khổng lồ lao thẳng qua giao thông hào tiền duyên của địch, bọn địch hoảng loạn bỏ chạy, gặp lực lượng bộ binh c11 bắn tiêu diệt trên đường truy kích. Tuy vậy, vẫn còn nhiều tên ngoan cố chống cự quyết liệt làm cho một số chiến sĩ ta bị thương. Đang vận động đánh địch, bỗng tôi thấy anh Then hét lên:
– Tài ơi, anh bị thương rồi. Tôi vội dừng lại, thấy đùi anh đẫm máu, tôi xé cuộn băng định băng cho anh, anh ngăn lại và nói:
– Để anh lại, tiếp tục cùng đơn vị truy đuổi đánh địch và nhớ nói với đại phó Ghẻ thay anh chỉ huy và báo với đại trưởng Bài anh bị thương. Sau đó Mão y tá chạy lại băng cho anh và anh được chuyển về tuyến sau (hơn 30 năm sau tôi mới có dịp tìm gặp laị anh, khi anh là cán bộ cao cấp, giảng viên trường quân chính Quân khu I. Khoảng một giờ sau y tá Mão cũng hy sinh. Anh Bài sau trận đánh chuyển sang làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 2, hy sinh khi chỉ huy đánh địch ở cao điểm 1900 trong Xẩm Thông). Sau này tôi mới biết, trên đường cáng anh Then về trạm hậu phẫu, anh ngất đi, khi hồi tỉnh, anh viết giấy đưa Cừ đang khiêng cáng anh, gửi đại trưởng Bài và chi bộ xem xét kết nạp Đảng cho tôi sau trận đánh, nhưng do đơn vị tiếp tục thọc sâu vào Xẩm thông- Long chẹng đánh chiếm các cao điểm 1800,1900, bản Mèo, dãy Ta can, Phu pha xay… triền miên, phải tới đầu tháng 2/1972, tại chân cao điểm 1723, khi đơn vị làm lễ truy điệu cho các đồng đội hy sinh buổi sáng, đồng thời chi bộ cũng tổ chức lễ kết nạp tôi vào Đảng.
Tượng đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ Liên quán Việt Lào tại Phonsavan Xiêng Khoảng
Gần trưa, đội hình c11 cùng xe tăng cơ bản làm chủ trận địa, nhiều xác địch chết dưới giao thông hào, có xác bị xích xe tăng khiến nát, có thằng trúng đạn pháo máu đã khô, có đứa ôm ngực trúng đạn thẳng của lính ta, có tên giãy giãy rồi bất động. Trong lúc vận động vượt qua đám lính địch chết, tôi phát hiện một tên nằm nghiêng như đã chết, nhưng tay hắn vẫn nắm khẩu AR15. Linh cảm như có điều không bình thường, lập tức tôi quay lại, thấy hắn nhổm dậy chĩa súng vào lưng một đồng đội đang vận động… Nghiêng người tôi nghiến răng xiết cò, khẩu AK47 rung lên, thằng địch giãy giãy nẩy lên rồi cứng lại. Biết nó đã chết, tôi tiếp tục chạy theo cho kịp đội hình, bỗng dưới một công sự cá nhân gần đó, một cái đầu đen nhô lên, tôi giương súng định bóp cò, thấy nó ngước nhìn lên, chắp tay vái lia lịa. Định thần, tôi nhìn xuống, tay vẫn để trong vòng cò. Một khuôm mặt đàn bà tái dại, té ra đó là một tên lính nữ. Tên địch mặc quân phục màu trắng của lính Thái lan, trên vai có chiếc túi cứu thương. Nhớ dạo học lớp 10, nghe thầy giảng về chiến tranh, Công ước quốc tế có điều không được giết người làm ngành y, vì có thể sử dụng băng bó thương binh. Vì ngôn ngữ bất đồng, tôi dùng tay ra hiệu cho nó lên khỏi công sự, chạy ngược lại hướng tấn công của đơn vị, vì phía sau có thương binh của ta. Nó nhìn như ko hiểu điều gì đang xảy ra. Tôi quát to và chỉ hướng chạy. Từ xa, Đức lính Tuyên quang chạy đến giương súng định bắn. Tôi nói: Không được bắn. Cần chấp hành chính sách tù hàng binh, vả lại nó chỉ là lính nữ quân y, nó có thể giúp băng bó cho thương binh mình ở tuyến sau. Sau này gặp lại Đức và những bạn bè cùng c11, mọi người trong đơn vị cứ đùa mãi việc tha mạng nữ quân y Thái Lan là có “tình ý riêng tư” (!). Nghĩ vậy tôi cũng thấy vui vui vì đã làm một việc nhân đạo, dù nó với mình ở hai chiến tuyến khác nhau.
Tại khu trung tâm của trận đánh, cơ bản đã sạch bóng gặc, xác địch nằm ngổn ngang khắp trận địa. Phía Phu Keng, Phu Tâng, Na Lu vẫn còn tiếng súng chống trả yếu ớt. Xe tăng vẫn đồng hành cùng bộ binh truy đuổi tàn quân địch.
Khi đã làm chủ Phai Khanh, tôi sực nhớ trước khi trận đánh diễn ra gần nửa tháng, một lực lượng trinh sát hỗn hợp đi điều nghiên thực địa gồm trinh sát tiểu đoàn cùng cán bộ các đại đội 9,10,11,12 do thượng uý tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Minh chỉ huy (chiến tranh chống quân Trung quốc xâm lược, anh Minh là tư lệnh phó quân đoàn 29, sau về đảm nhiệm Cục trưởng một cục ở Bộ Tổng tham mưu). Tôi được phân công đi cùng đại đội phó thượng sỹ Nguyễn Văn Tình. Vừa kết hợp trinh sát, vừa nghe anh Minh giao mục tiêu cho anh Tình thay mặt c11 nhận tại thực địa. Trinh sát xong, anh Minh ra lệnh rút, khi đã ra ngoài điểm tập kết, kiểm tra quân số thì không thấy anh Tình. Cùng lúc đó nhiều tiếng nổ ở đoạn giao thông hào mà chúng tôi vừa rút. Chờ dứt tiếng súng, mọi người lần mò trong đêm tìm mãi ko thấy anh Tình. Anh Minh nhận định, chắc anh Tình đã hi sinh, hơn nữa trời sắp sáng. Không còn cách nào khác, anh Minh đành quyết định cho toàn đội hình trinh sát lặng lẽ lui quân.
Trong lúc mọi người đang thu dọn chiến trường và tạm thời dừng nghỉ ít phút. Hình dung nhớ lại đêm đi trinh sát với a Tình, tôi tìm tới nơi đó, tìm về đúng vị trí đoạn giao thông hào mà chúng tôi mò vào trinh sát. Quan sát kỹ, như có linh tính mách bảo, ngay bờ chiến hào sát dưới lưng thằng địch chết, một đầu dây thắt lưng của bộ đội ta thò ra bên miệng giao thông hào. Tôi lật xác thằng địch, kéo chiếc dây lưng cùng túi vải cơm trắng (bộ đội VN ai cũng có để đựng cơm nắm, lương khô) có dòng chữ “Nguễn Văn Tình”. Lặng người trong giây lát, tôi gọi đồng đội tiếp tục tìm kiếm xem có dấu vết gì của anh không. Nếu anh đã hy sinh xác anh ở đâu? Tìm mãi không thấy, tôi mang dây lưng và túi cơm của a Tình về giao cho BCH đại đội…
Khoảng 12 h trưa, toàn khu vực Phai Khanh đã im tiếng súng, trong lúc chỉ huy đại đội lên tiểu đoàn nhận nhiệm vụ, mọi người tranh thủ nghỉ ngơi dưới lòng giao thông hào đề phòng bất trắc. Phấn khích về thắng lợi của đơn vi, vừa tranh thủ nhấm nháp mấy viên đường Liên xô, vừa hả hê rít vài hơi thuốc lá chiến lợi phẩm A Xanh, A Đỏ, Lem Thông thu được của địch. Quá vui sướng, Lực chiến sĩ trung liên, lính Tuyên quang (vừa bổ xung trước chiến dịch và tham gia trận đánh đầu tiên) nhảy lên trên giao thông hào hét to “chiến thắng, Chiến… th… ắ…n…”, bỗng một tiếng nổ chát chúa, Lực ngã vật xuống, máu từ ngực áo tuôn ra. Thấy vậy, Mão y tá lao lên băng cho Lực, lại một tiếng nổ, Mão đã không kịp băng cho Lực gục xuống. Thương người đồng hương quê lúa Thái Bình cùng nhập ngũ tháng 8/69, trung đội trưởng Khánh rồi cả chính trị viên phó Cương cùng nhảy lên cứu bạn và đều trúng đạn. Tiếp theo là Miên (Nam Hà) và 2 chiến sĩ người Tuyên quang lần lượt lao lên và lần lượt trúng đạn. Đau quá, cả buổi sáng đánh thắng tưng bừng, diệt không biết bao nhiêu địch ta chỉ thương vong vài người, giờ làm chủ trận địa mà chỉ chưa đầy 5 đến 7 phút, 8 cán bộ, chiến sĩ mãi mãi không còn được về với Mẹ.
Cựu chiến binh Quân tình nguyện Nguyễn Đắc Tài – tác giả và là nhân chứng trong trận đánh (Vui với cháu – Hà Nội 12/2020)
Khi đại trưởng Bài từ trên tiểu đoàn bộ về, nhìn đồng đội, anh đau đớn môi mím chặt, mắt anh đỏ ngầu… anh ra lệnh phải bắt sống thằng địch bắn lén, mọi người chuẩn bị dao găm, bắt được nó, xẻo nó ra từng miếng tế đồng đội (!). Nhưng sau anh đổi ý, lệnh cho tiểu đội trưởng Tâm nguyên xạ thủ B40 và Đạo tiểu đội trưởng cối 60ly bắn tiêu diệt. Mọi người căng mắt quan sát phía trước mặt, tại bụi tre nhỏ nơi phát ra tiếng súng bắn tỉa, một bóng địch vừa bò ra khỏi bụi tre đang dùng mảnh vải trắng khua trên đầu gọi máy bay đến cứu. Bằng bản lĩnh và kỹ thuật của xạ thủ B40, Tâm ngắm thẳng xiết cò, cùng lúc Đạo lấy phần tử cho cối 60 cũng bắn vào bụi tre, xác thằng địch văng tứ tung. Đau xót trước những sư hy sinh đáng tiếc của đồng đội do quá chủ quan, một bài học quá đắt, nhưng cũng phải thừa nhận thằng lính Mẹo (H’Mông) bắn “thiện xạ”.
Với hàng trăm trận to nhỏ của c11, với nhiều chiến công suất sắc, sư hy sinh chỉ đếm trên đầu ngón tay. Phai Khanh – đây là trận duy nhất có trên mười cán bộ, chiến sĩ bị thương, hy sinh. Niềm vui chiến thắng bất tận lúc trước, giờ nhạt nhoà trong nuối tiếc, không gì có thể bù đắp nổi.
Những chiến dịch đã qua, nhiều trận đánh lớn nhỏ rất cam go, ác liệt như Bản Na,1663, 1350,hang Toa tàu vào Xẩm thông, Ta can, Phu pha xay, 1723, 1800,1900, Bản Mèo rồi quay ra Cao nguyên Cánh Đồng Chum với các cao điểm Phu Keng, Phu Theng Leng, Bản Tôn, Đồi 5 mỏm (dãy đồi Cóong Le), đại đội 11 luôn là đơn vị chủ công của trung đoàn 174 trong các trận đánh lớn. Thắng lợi nào mà không có sự mất mát, hy sinh. Với trận đánh Phai Khanh đã để lại trong tâm tưởng lính c11 những dấu ấn khó quên. Dù sau trận đánh, đài kỹ thuật trên thông báo: trận Phai Khanh, địch chết gần trăm tên.
Nếu không do lơ là, chủ quan dẫn tới mất mát quá lớn, chắc chắn sau trận đánh và kết thúc chiến dịch Z, đại đội 11 sẽ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, vì trước đó đơn vị được sư đoàn tập trung xây dựng đơn vị AHLLVTND. Mãi sau này, phải tới tận ngày Quốc Khánh 2 tháng 9 năm 1973, đại đội chúng tôi mới được nhận danh hiệu cao quý đó. Đại đội 11 cũng lại là đại đội đầu tiên của sư đoàn 316 được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Phần thưởng cao quý trong thời gian làm nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Bắc Lào – Đó là niềm tự hào của lính c11 chúng tôi.
Sau trận Phai Khanh, lính C11 thực hiện nhiệm vụ trên giao, tiếp tục truy kích địch theo hướng Na Lu vào cửa rừng bản Khổng, sau đó tạm dừng ở cửa rừng, tranh thủ đón xuân Nhâm Tí 1972. Đón xuân trong điều kiện ko có bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành, nhưng vẫn có buổi tối đón giao thừa, hái hoa dân chủ, với tiêu chuẩn một người một cái kẹo cứng Hoa hồng và một điếu thuốc lá Tam đảo. Mùng 3 Tết hành quân cơ động vào đánh Xẩm Thông – Long Chẹng, thủ phủ của tướng phỉ Vàng Pao. Vào đó, đơn vị tham gia đánh địch ở Ta can, Phu pha xay, các điểm cao 1723,1800,1900, bản Mèo đến cuối tháng 9/1972 mới được ra củng cố, huấn luyện và bổ xung thêm tân binh ở ngoài bản Ban.
Ba năm 1970,1971,1972 cùng đồng đội c11 tham gia đánh hơn trăm trận, được chứng kiến gần chục đợt bổ xung mỗi khi đơn vị hao hụt quân số. Sau Thái bình đến Hà Bắc, Hà Tây, Nam Hà, Vĩnh Phú, Tuyên Quang,Nghệ An, Thanh Hoá. Ba lần cùng đơn vị vào đánh Xẩm Thông – Long Chẹng. Năm 1996, anh em c11 tìm gặp nhau được hơn hai mươi, giờ còn mười lăm, nhiều đồng đội tái phát vết thương đã vội ra đi khi đang chuẩn bị nghỉ ngơi sau chặng đường dài chinh chiến. Hàng năm, nhớ trận Phai Khanh, đúng ngày 18/12 chúng tôi lại tìm gặp nhau, tri ân gần bốn mươi cán bộ, chiến sĩ C11 đã mãi mãi gửi tuổi hai mươi trên đất nước Triệu Voi.
Đêm cuối năm, viết lại trận đánh Phai Khanh sau 48 năm mở màn chiến dịch giải phóng Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng (18/12/1971-18/12/2019), tôi muốn bày tỏ lòng tri ân tới những cán bộ, chiến sĩ, những đồng đội của chúng ta đã không thể trở về đất Mẹ. Nhưng các anh luôn sống mãi trong trái tim chúng tôi, những người còn lại sau cuộc chiến. Tổ quốc Việt Nam và nhân dân Lào mãi mãi khắc sâu công lao trời biển của các anh.
Nguyễn Đắc Tài – Cựu chiến binh c11d3e174f316