Cái bản Phù Xung cao tít tắp trên đỉnh núi quanh năm sương phủ ấy có rất nhiều chuyện, mà chuyện nào cũng lạ, cũng vui, chuyện nào người ta cũng thích kể, thích nghe, thích bàn tán.
Hồi “Kim Chiêng” ăn Tết H’mông có chuyện cô Đùa lấy anh Khăm Xẻn, chuyện này được dân bản bàn tán rất nhiều, đây thật là một câu chuyện đặc biệt, từ ngàn xưa làm gì có chuyện trai Lào, gái H’mông lấy nhau. Chỉ ở vùng cơ sở của Neo Lào mới có chuyện tốt lành như vậy.
Giữa mùa phát rẫy, có chuyện dân bản họp liền hai đêm để bàn việc cử một người đi hoc lớp sư phạm ở Trung ương về làm giáo viên dạy chữ. Bàn đi bàn lại không có ai đủ điêu kiện. Vì người biết chữ như ông Nai bản Chông Hờ thì tuổi đã cao, còn đám thanh niên có vài người biết chữ nhưng đang tham gia du kích, không thể rút đi, thiếu họ đội du kích sẽ yếu, giặc đến thiếu người cầm súng chống lại.
Cuối cùng dân bản cử em Đùa Lầu một chú bé mới lên bảy tuổi. Chưa hề biết cuốn sách cái bút là gì đi trung ương học làm thầy giáo với cái lý chắc nịch là bây giờ nó chưa được biết thì năm, bẩy năm nữa nó sẽ biết. Bây giờ không cho nó đi làm học trò thì sau này nó không làm giáo viên được.
Và bây giờ, đang mùa cây “da dàng” ra hoa, dân bản Phù Xung lại rộn hẳn về chuyện chị May, một phụ nữ bốn con, mới vào du kích đã lập công lớn.
Tác giả Đào Văn Tiến cựu chuyên gia quân sự tuy tuổi đã ngoài 90 tuổi nhưng luôn tái hiện những ký ức một thời sát cánh bên các bạn Lào trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ
Muốn biết chị May lập công ra sao, trước hết hãy nghe chuyện chị đấu tranh với dân bản để vào du kích đã.
Một hôm, Nai bản Chông Hờ đi huyện về, gọi dân bản đến họp nói “ Chấp hành chỉ thị Trung ương và Bộ chỉ huy tối cao, để trừng trị bọn địch tấn công lấn chiếm vùng giải phóng Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, theo kế hoạch của huyện nhà, mùa khô này ta tung lực lượng hoạt động sâu vào vùng địch kiểm soát. Riêng bản ta du kích xuống đường 13. Gặp xe đánh xe, gặp lính đánh lính vừa để phối hợp với chiến trường chính vừa để trị cái tội chúng rải chất độc hóa học phá rừng, phá rẫy của vùng ta năm ngoái”.
Nghe ông Nai bản nói, đám du kích thích quá nhao lên hỏi :
-Mai đi chứ ông Nai bản?
Ông Chông Hơ trả lời:
-Mai thì chưa, hãy bàn cho kỹ đã. Ta bàn thế này nhé: du kích đi tất cả hay đi một nửa, đi một nửa thì ai ở, ai đi, Đi thì ở nhà ai làm nhiệm vụ bảo vệ bản.
A! Vấn đề tưởng dễ mà hóa ra lại khó. Bản Phù Xung tất cả chỉ có năm tay súng du kích, toàn là những tay giỏi. Mùa mưa năm trước họ đã đánh tan tác một toán phỉ Vàng Pao lên càn, diệt hơn chục tên. Thu cả trung liên mà du kích không ai việc gì. Chỉ sau khi địch rút, anh Nao Va chồng chị May đi tuần tra không may vướng mìn địch cài lại bị chết. Đội du kích còn lại bốn người. Vừa rồi, mới bổ sung chú Lư Và mười sáu tuổi. Du kích Phù Xung giỏi đánh giặc nhưng số lượng quá ít. Sự ít ỏi này chỉ lúc đi hoạt động xa mới lộ rõ. Đi cả thì bản bỏ trống, máy bay địch đến ai bắn, biệt kích địch đến thì ai diệt, gián điệp địch ai bắt. Chia ra để đi cũng không tiện. Đi ít nhỡ có người ốm, người bị thương, hai người phải khiêng một người, còn ai đánh địch nữa. Thế là mỗi người một ý, mỗi người một lời, cuộc họp ồn lên không còn trật tự gì nữa.
Từ đầu cuộc họp có một người chưa nói câu nào. Người đó là chị May. Chị ngồi im lặng giữa bốn đứa con. Hai đứa dựa gối phía trước, đứa bé nhất địu ngủ sau lưng. Còn đứa con gái lớn đứng bên vai mẹ, thỉnh thoảng nó vỗ vỗ vào lưng cho em ngủ say. Chị ngồi vậy, im lặng, không nói, không cử động. Giống như chiếc sọt đựng đồ đạc ở góc nhà. Chị May tuy không nói nhưng chị có suy nghĩ từ ngày chồng giẫm phải mìn địch chết, nhiêu đêm chị không ngủ được. Chị căm giận bọn Phỉ bọn Mỹ lắm. Chị muốn trả thù cho chồng. Nói theo cách của người H’mông là đòi lại máu, lấy lại đầu cho chồng. Chị đã xin dân bản cho chị vào dân quân thay chồng đánh giặc giữ làng nhưng người ta bảo: “ Đàn bà không làm du kích được đâu”.
Cũng có người thương chị như Nai bản Chông Hờ thì nói: “Để hai đứa con trai của mày lớn lên, tao sẽ trao súng cho chúng”.
Chị May tức lắm, tức đến phát khóc lên nhưng cũng đành cam chịu. Cả cái vùng này đã có người du kích gái nào đâu. Và, chị chỉ còn biết làm rẫy nuôi con, mong ngày mong đêm sao cho hai đứa con trai một đứa lên bẩy, một đứa lên năm chóng lớn.
Hôm nay, nghe dân bản bàn, chị thấy ngay là chỉ có đưa thêm phụ nữ vào du kích mới đủ lực lượng mà đi xa hoạt động được, lại vừa có người ở lại bảo vệ dân làng. Đây là việc có thể thực hiện được: đã họp bàn thì phải bàn cho ra lẽ. Phải nói thôi! Chị nghĩ thế rồi hắng giọng lên tiếng:
-Ông Nai bản à! Cho tôi nói.
Nãy giờ Nai bản Chông Hờ cũng đang bí. Tuy thấy cuộc họp mất trật tự nhưng ông cũng mặc, cứ ngồi hút thuốc, vừa nghĩ, vừa nghe. Thấy chị May muốn phát biểu, ông huơ tay bảo mọi người im lặng rồi hất đầu bảo chị:
-Mẹ May nói đi.
Nhiều cặp mắt đổ dồn vào chị May, chị hồi hộp quá, tim đập thình thịch nhưng không thể không nói. Lời chị May run run lẫn vào hơi thở gấp nhưng mọi người vẫn nghe rõ:
-Bản ta nhỏ, dân ta ít, đàn ông không quá chục người, muốn du kích mạnh, không thể ngồi chờ bọn trẻ lớn lên mà phải cho phụ nữ vào du kích mới được. Cứ chọn trong số các chị em, chưa chồng càng tốt, có chồng có con rồi cũng chẳng sao. Chọn đúng người có tinh thần ấy. Ý tôi như thế đấy dân bản ạ.
Có tiếng nói rất trong của một cô gái nào đó giống tiếng cô Đùa cất lên hưởng ứng.
-Chị May nói đúng đấy. Cho phụ nữ vào du kích cùng với nam giới để đánh giặc giữ làng.
Nhưng cái giọng cao vút trong trẻo ấy đã bị một loạt giọng trầm ấm, ồ ồ của đám đàn ông chặn lại.
-Mẹ May nói sai rồi!
-Nữ không vào du kích được đâu.
-Súng đạn đâu phải là trò chơi!
-Việc của phụ nữ là nuôi con, nuôi lợn…
Lúc đó, lại có mấy giọng nhỏ, yếu của mấy bà, mấy cô xen vào nghe đến tức.
-Chúng tôi không làm du kích được đâu.
Tác giả Đào Văn Tiến (thứ 3 phải qua) trong một lần trở lại chiến trường xưa, thăm ông Bounhang Volachit nguyên Tổng bí thư, Chủ tịch nước vào tháng 12/2017.
Chị May đưa mắt nhìn khắp một lượt các bộ mặt quen thuộc. Những khuôn mặt ngày thường hiền lành, đáng yêu, nhưng hôm nay sao khác lạ. Nó như bị biến dạng đi dưới ánh lửa chập chờn và chị May cảm thấy có một cái gì rất nóng, rất khó chịu ở lồng ngực. Thế là đàn ông họ vẫn cứ coi khinh phụ nữ, mà phụ nữ thì cứ chịu để họ khinh thường mình.
Không chịu đựng được nữa, chị nâng địu, xốc đứa con lên lưng, đứng bật dậy, chị nói lạc cả giọng:
-Các người ăn gio, ăn than hay sao mà nói ra toàn những lời tối đen như đêm không trăng không sao vậy. Bản đang thiếu người đi đánh giặc phỉ giặc Mỹ. Phụ nữ xin vào du kích góp thêm tay súng các người lại không cho. Bụng các người tối lắm.
Tiếng đám đàn ông lại vang lên phản đối:
-Nói bậy.
-Nói láo.
Cuộc họp trở nên căng thẳng. Ông Nai bản thấy chị May có lý. Ý ông cũng muốn lấy thêm nữ thanh niên vào du kích. Họ bận việc nhà không đi xa được thi họ cầm súng giữ bản giữ làng. Nhưng thấy cánh đàn ông không ai đồng ý nên ông không dám quyết định.
Ông kết thúc cuộc họp, bằng cách lấy biểu quyết:
-Thôi, không cãi nhau nữa. Ai bằng lòng cho phụ nữ vào du kích thì giơ tay.
Không thấy ai giơ tay lên cả. Nhìn vào đám các bà, các cô ngồi ở phía sau, ông Nai bản hỏi tiếp:
-Thế các bà, các chị, ai muốn vào du kích thì giơ tay lên.
Các bà cười, còn mấy cô gái đưa mắt cho nhau dò hỏi nhưng không có ai giơ tay lên cả. Chỉ mình chị May giơ tay nói to:
-Tôi xin xung phong.
Ông Nai bản gật gật đầu vẻ bằng lòng. Ông nói với dân làng nhưng mắt thì nhìn cánh du kích:
-Cứ để mẹ May vào du kích xem sao. Anh em du kích bằng lòng không?
Mấy anh du kích chụm đầu vào nhau, thầm thì một lúc rồi chú Lư Và đứng lên vừa cười, vừa nói, vẻ tinh nghịch:
-Chị May muốn vào du kích thì phải theo một điều. Cho chị tập bắn súng mấy ngày, sau đó, bắn thi với tiểu đội trưởng Páo. Bằng hoặc thắng Páo mới được vào, thua thì thôi, cấm thắc mắc.
-Thi với ai tôi cũng thi.
Chị May nói quả quyết.
Cuộc họp kết thúc. Và thế là tạm gác việc đưa du kích vào hoạt động ở vùng địch vì lý do thiếu người.
Đêm đó về nhà, chị May không tài nào ngủ được. Chị biết, chị phải vượt qua một thử thách quá lớn, một thử thách không phải chỉ đặt ra cho riêng chị mà chung cho chị em phụ nữ Lào Xủng vùng này. Địa vị xã hội họ sau này, sẽ do cuộc thi quyết định. Bắn thi với Páo đâu có dễ. Páo là người bắn giỏi nhất vùng. Chim, sóc, chuột con nào anh bắn rơi xuống mình cũng đều nguyên lành, chỉ có đầu là biến mất. Anh nói nếu bắn chim thú nhỏ mà bắn đúng vào thân mình nó thì thịt đâu mà ăn nữa. Anh nổi tiếng nhất hồi chống càn. Khi mấy du kích thách Páo bắn đứt mũi thằng “Nai chà” để cảnh cáo bọn lính, Páo lên đạn đợi. Đến khi thằng “Nai chà” quay mặt sang bên cạnh, anh bóp cò. Thằng giặc thét to một tiếng, tay bưng mũi, chạy biến vào rừng. Câu chuyện tên “Nai chà” bị bắn mất mũi, một thời được lưu truyền làm ngán ngẩm bọn lính vương quốc mỗi khi được lệnh đi càn quét vùng Lào Xủng. Còn phía du kích trong vùng căn cứ kháng chiến thì lấy Páo làm gương học tập, phấn đấu. Chị May nghĩ Páo bắn giỏi thật ra cũng chẳng có gì là lạ. Đối với đàn ông Lào Xủng, bắn là sở trường của họ. Bốn, năm tuổi chúng đã chơi cung, bảy tám tuổi đã bắn nỏ. Trên mười tuổi đã mang “pựn kép, pựn phớng” đi bắn khỉ vượn gà, chồn trong rừng. Còn con gái thì chỉ quen việc làm nương chăn lợn, lấy củi, may vá thêu thùa…
Tác giả Đinh Văn Tiến trong một lần trở lại Lào và có cuộc gặp gỡ với bà Pany Yathotou nguyên Chủ tịch Quốc hội Lào.
Không nói chuyện chị May đã tập bắn súng thế nào , chỉ nói chuyện hôm chị thi bắn với Páo.
Hôm đó, sau khi sương mù vừa tan, rừng già đã le lói những tia nắng sáng, chị May vừa cho mấy đứa con ăn ngô bột xong thì ông Nai bản đến, đưa chị xuống con suối đầu bản. Đến nơi đã thấy Páo, cánh du kích và mấy người dân bản đang hút thuốc nói chuyện chờ sẵn.
Bia là một điểm trắng ở thân cây, to vừa bằng đồng bạc hoa xòe do chú Lư Và lấy mũi dao khoét vỏ ra.
Người bắn đứng bia khoảng năm mươi bước chân, và mỗi người chỉ được bắn một viên.
Páo bắn trước. Vừa nâng súng lên đã nghe một tiếng “đoàng”.Páo vội kêu:
-Súng cướp cò!
Ông Nai bản quát lên:
-Bắn lại.
Mọi người xì xào bàn tán.
Lần này Páo ngắm rất cẩn thận. Súng nổ. Ông Nai bản chạy lên xem.
-Páo bắn giỏi lắm! Ông vừa nói vừa chỉ tay vào giữ điểm trắng. Mọi người reo lên hoan hô Páo.
Đến lượt chị May, phút hồi hộp qua đi rất nhanh. Bình tĩnh, tự tin, chị lên đạn, nâng súng lên vai. Cái điểm trắng tròn kia bỗng từ thân cây chạy rất nhanh vào đầu mũi súng, nhún nhẩy trên đầu ruồi rồi đột nhiên đứng im, thật im, chị kéo cò, một tiếng nổ đanh, rất gọn, không vang rền mà nghe chìm xuống như tiếng rìu sắc bập vào thân cây mềm. Mọi người chạy ùa cả lên để xem kết quả.
Riêng chị May lúc bắn bình tĩnh bao nhiêu thì bây giờ lại hồi hộp bấy nhiêu. Chị muốn lên xem nhưng hai chân cứ run lên, tim đập thình thịch như tiếng chày giã gạo vào dịp bản chuẩn bị “ Kim Chiêng” nên chị đứng tại chỗ chờ đợi.
Bỗng có tiếng kêu, làm chị May suýt ngã.
-Trượt rồi!
Chị loạng choạng cầm súng chạy lên, hai mắt dán vào thân cây, không thấy một vết xước, một lỗ thủng nào. Chị đưa mắt nhìn những thân cây cạnh đó, cũng không thấy vết tích viên đạn bắn trượt.
Thẫn thờ, chị sờ tay vào lỗ thủng giữa điểm trắng. Lỗ thủng to gần lọt ngón tay út, tự nhiên mắt chị sáng lên, chị quay lại nói với mọi người giọng quả quyết:
-Tôi cũng bắn trúng vào chỗ này.
Rồi chị nói với ông Nai bản:
-Ông Chông Hờ cho tôi mượn con dao.
Nai bản hiểu ý, rút con dao đeo bên sườn, vừa lúc đó Páo tiến đến với con dao trong tay:
-Chị lùi ra, tôi chặt cho.
Những mảnh gỗ trắng thi nhau tung theo nhịp tay chặt cây của Páo, giống đàn bướm ngủ say bị xua dậy. Thân cây gỗ bị vạc đi một mảng lớn. Bỗng “cheng” một tiếng. Páo dừng tay. Lưỡi dao chạm vào viên đạn đồng. Páo lấy mũi dao bẩy mảnh gỗ rồi kêu lên:
-Này lại mà xem bà con ơi!
Mọi người xúm lại. Trước mặt họ hai viên đạn nối đuôi nhau nằm trong lỗ đạn xuyên giống hệt hai con nhộng gỗ.
Cánh du kích reo lên:
-Chị May bắn giỏi quá.
Mấy người lớn tuổi trầm trồ:
-Bắn nỏ mà đầu tên sau cắm vào đuôi tên trước thì người H’mông ta nhiều kẻ bắn được còn bắn súng mà viên đạn sau cắm vào đuôi viên đạn trước thì chỉ mới có một mình mẹ May thôi.
Còn tiểu đội trưởng Páo thì nói:
-Chị làm tiểu đội phó du kích nhé.
Được mọi người khen, tai chị May đỏ bừng lên.Trông chị bây giờ đẹp và trẻ ra nhiều lắm.
Du kích bản Phù Xung mạnh hẳn lên từ ngày có thêm chị May và bốn tay súng nữ đều là đoàn viên thanh niên. Câu chuyện cuộc họp trước bàn chưa xong thì nay đã được quyết định. Một tổ du kích năm người do Páo chỉ huy, trong đó có chị May và cô Đùa sẽ xuống đường 13 hoạt động. Đường 13 là con đường chiến lược hết sức quan trọng do địch kiểm soát chạy suốt từ Bắc đến Nam Lào. Nếu lực lượng cách mạng uy hiếp được con đường này thì phòng tuyến phòng thủ sông Mê Kông của địch sẽ bị rung chuyển. Đoạn đường mà du kích Phù Xung có nhiệm vụ chặn đánh là đoạn đường nằm giữa thủ đô Viêng Chăn và thị xã Pác Xăn nếu cắt đường 13 ở đoạn này thì Viêng Chăn cũng bị uy hiếp.
Du kích rời bản sau hai ngày chuẩn bị. Dân bản tiễn họ đến con suối đầu bản. Nhiều người cười nhưng cũng có người khóc. Mắt chị May cũng đỏ hoe. Chị không muốn xa các con, đến khi Páo dục, chị mới dặn chúng.
-Các con ở nhà ngoan nhé. Mẹ đi mấy ngày rồi mẹ về. Bốn đứa con, chỉ đứa bé nhất là khóc, ba đứa kia cười. Hai thằng con nói với chị:
-Mẹ nhớ lấy súng về cho chúng con.
Du kích đến sát đường 13 sau ba ngày tắt rừng. Khi theo đường voi đi, khi theo đường nai, hoẵng, khi tự mở lấy đường. Trên đường đi họ bắt gặp khá nhiều thú rừng nhưng họ không dám bắn sợ lộ bí mật. Chỉ bắt được một con kỳ đà khi thấy nó leo lên cây. Họ hạ cây xuống để bắt. Anh em du kích định làm thịt ngay nhưng chị May bảo để đánh địch xong sẽ liên hoan.
Theo kế hoạch, cả tổ bám đường hai ngày nắm tình hình, xem xe, xem lính. Sau đó mới bàn cách đánh.
Xe đối với những người H’mông bao đời sống trên đỉnh núi quanh năm sương phủ quả thật rất lạ, lạ hơn cả máy bay. Tàu bay họ đã thấy rất nhiều, chỉ cần nghe tiếng ầm ù trên trời là họ biết ngay đó là loại máy bay gì từ “ái phôn” (phản lực) đến “tê xao pét” (T28) “A đê hốc” (AD6)…. Còn xe, họ đã từng thấy lần nào đâu.
Hai ngày bám đường đem lại cho chị May và toán du kích nhiều điều mới lạ. Đường xe bằng phẳng và to hơn đường voi đi trên núi, tiếng xe kêu ì ầm nhưng không ríu rít như tàu bay. Chân xe trông giống cái chảo đại nấu cám lợn của người H’mông. Còn mặt xe, chỉ nhìn thẳng phía trước, không nhìn được hai bên.
Quan sát xe chạy trên đường, chị May nghĩ nhiều đến cách đánh. Nhằm thẳng đầu nó mà bắn hay bắn đón. Bắn trúng nó có cháy như tàu bay không?
Xe qua lại trên đường có nhiều loại, loại nào chị May cũng nhìn kỹ, xem kỹ. Nhưng chị chú ý nhất chiếc xe màu xanh rêu đá, buồng trước có hai thằng ngồi thùng sau có bốn đứa đứng. Tay chúng vịn vào ba khẩu súng máy chĩa nòng ra trước và hai bên. Người chúng lắc lư theo nhịp xe chạy. Chiếc xe này sáng đi qua lúc vượn kêu, chiều trở về lúc gà rừng gáy. Đoán đây là chiếc xe chở lính tuần tra, anh em du kích quyết định đánh chiếc xe này. Nhưng về cách đánh thì còn bí, chưa tìm ra cách thích hợp. Nhiều ý kiến đưa ra để bàn. Chị May rất chú ý đến câu nói của Páo “nên nghĩ cách làm cho nó dừng lại mà bắn”. Lời Páo gợi cho chị một ý định khá táo bạo. Chị nói:
-Anh chị em à, ý Páo hay đấy. Tôi đã nghĩ được cách làm cho xe nó dừng lại đúng chỗ ta phục kích và bọn lính sẽ bị tiêu diệt ngay lập tức từ những loạt đạn đầu. Còn phá xe thì ta dùng lựu đạn.
-Nhưng chị làm thế nào cho xe nó dừng lại.Mọi người nhao lên hỏi?
Chị May chỉ vào con kỳ đà:
-Con này sẽ ra cản xe.
Rồi chị nói rõ ý định của chị cho mọi người nghe.
Hiểu ý chị. Anh em du kích cùng cười.
***
Trời sáng đã lâu, rừng vẫn trắng một màu sương mỏng. Đàn vượn sau rặng núi đá thỉnh thoảng cất tiếng hò reo. Theo kế hoạch, chị May xuống sát lề đường cản xe. Bốn người kia triển khai xung phong yểm hộ, tất cả đều đã sẵn sàng.
Giây phút chờ đợi thật nặng nề căng thẳng. Bỗng có tiếng xe từ xa vọng lại mọi người sẵn sàng súng đạn. Tiếng động cơ, tiếng bánh lăn làm rung chuyển cả vách núi. Kia rồi! Chiếc xe màu xanh rêu đá đã hiện ra dưới dốc. Nó gầm gừ hung dữ nặng nề. Khói xịt ra khét lẹt làm bẩn cả màn sương trắng. Mấy thằng lính ra sau thùng xe lắc lư theo nhịp xe đi.
Chị May lao con kỳ đà ra giữa đường. Rồi ấn chốt an toàn khẩu các bin báng gập. Và thu người chờ đợi. Con kỳ đã đã bị bẻ gãy chân vặn mình một cách khó nhọc, bốn chân cào đất lết chậm chạp, khoảng cách giữa chiếc xe và con vật không còn xa nữa. Con vật hốt hoảng văng mạnh đuôi, bốn chân cào đất liên hồi. Tim chị May vụt thót lại. Chị cắn chặt răng nhổm người lên với ý nghĩ táo bạo: “ Nếu con kỳ đà không làm chúng để ý thì ta sẽ lao ra cản xe cho anh em tiêu diệt. Không thể để cho chúng đi thoát”.
Vừa lúc tên lính đứng trên thùng xe quan sát phía trước, lấy tay đập mạnh lên buồng lái kêu:
-Kỳ đà! Kỳ đà!
Những thằng khác cũng đã trông thấy đồng thanh:
-Dừng xe lại bắt kỳ đà đã.
Tên cai ra hiệu cho lái xe dừng xe. Tên lái đạp phanh, bọn lính đứng sau mất đà, dúi vào nhau. Tên cai và tên lái cùng một lúc mở cửa hai bên chạy ra, còn bọn lính thì nhảy xuống đường bắt con vật. Đúng lúc đó. Cả năm du kích lao xuống. Quạt những làn đạn, quật chúng xuống đường.
Chiếc xe nãy giờ vẫn gầm gừ phun khói, nhưng không còn hung dữ nữa. Chị May chạy đến tung vào buồng lái một quả lựu đạn. Chiếc xe bùng cháy trong tiếng nổ rền như sấm xô vào vách đá.
Trận đánh kết thúc rất gọn. Núi rừng trở lại vẻ huyền bí trong màn sương chưa tan. Đàn vượn sau rặng núi đá lại buông tiếng hò reo inh ỏi.
Đào Văn Tiến