Mùa khô 1972-1973, tình hình chiến sự vùng Salavan (Nam Lào) diễn biến phức tạp, gay go và quyết liệt. Cuối tháng 10-1972, địch dùng trực thăng đổ bộ 2 GM (41, 42) xuống đánh chiếm Salavan vừa nhằm giải tỏa Không Sêđôn đang bị ta vây ép, vừa để thu hẹp vùng giải phóng của ta, đồng thời kết hợp với Sêđôn, Sênô tạo thành phòng tuyến chia cắt Trung Lào với Hạ Lào. Đầu năm 1973 chiến sự càng ác liệt hơn, ta và địch giành nhau từng đoạn đường, từng ngọn đồi, tấc đất nhằm tạo lợi thế trước khi Hiệp định Viêng Chăn về Lào được ký kết. Kẻ địch nham hiểm thực hiện lối đánh giằng co, tránh đụng độ lớn.
Đoàn Cựu chiến binh Quân tình nguyện Việt Nam – Thành phố Hà Nội sang thăm lại chiến trường xưa- Thủy điện Sanavan tháng 11/2016
Khi ta đánh vào trung tâm thị xã thì chúng rút ra ngoài, rồi từ ngoài đánh úp vào, cứ thế lặp đi, lặp lại. Mặt khác, chúng dùng quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn hoạt động phân tán ở vòng ngoài nhằm ngăn chặn từ xa sự tiến công của ta, sử dụng tối đa ưu thế của phi pháo gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất… Với cách thức đó, chúng âm mưu kéo dài thời gian chiếm đóng cho đến ngày đình chiến. Chính vì vậy, mà chiến dịch giải phóng Salavan diễn ra quyết liệt và kéo dài 128 ngày đêm. Những trận đánh ngoài công sự giữa ta và địch xảy ra thường xuyên, liên tục, có ngày phải đánh từ hai đến ba trận. Điều kiện vật chất: Gạo, đạn thiếu, nước ăn uống, tắm giặt vô cùng khan hiếm, chấy rận đầy người… là chuyện thường tình trong những ngày đó.
Và chính trong những ngày cam go, ác liệt đó, tôi đã mất đi một người đồng đội thân thiết. Anh ngã xuống khi đang độ tuổi đôi mươi, khi chỉ còn hơn một tháng nữa là chiến tranh kết thúc.
Hội Cựu chiến binh tỉnh Salavan đón Đoàn Cựu chiến binh quân tình nguyện Việt Nam – Thành phố Hà Nội sang thăm lại chiến trường xưa – trụ sở Cựu chiến binh Salavan 11/2016
Vào một ngày giữa tháng 12-1972, một trận đánh quyết liệt giữa đại đội tôi với một đại đội địch đã xảy ra trên cánh rừng ven rừng, sát bản Nặm Thèng – một vị trí quan trọng án ngữ phía đông nam thị xã Salavan.
Được tin của đài quan sát báo về: Quân địch từ hướng sân bay Salavan đang hành quân vượt cánh đồng, tiến thẳng vào cánh rừng nơi chúng tôi tập kết. Ban chỉ huy đại đội lập tức triển khai phương án tác chiến. Một trung đội chốt giữ, hai trung đội còn lại được chia thành hai mũi xuất kích ra bìa rừng chờ địch. Sau mấy tháng chiến đấu liên tục, quân số đơn vị đã bị tổn thất nhiều. Cũng may hôm đó có Phạnh và Phước là hai trinh sát của tiểu đoàn đi cùng nên đơn vị có thêm được hai tay súng.
Khi tốp đi đầu của địch cách đài quan sát khoảng chừng 10m, cả đại đội nổ súng. Sau loạt đạn đầu tiên, khoảng một chục tên địch chết ngay tại trận. Bị đánh bất ngờ, địch hoảng hốt bò sát các bờ ruộng, bắn trả loạn xạ. Khi định thần trở lại, chúng tổ chức phản kích mãnh liệt, hết đợt này đến đợt khác. Cả cánh đồng và rừng Nặm Thèng vang rền tiếng súng. Quân địch dùng M79, súng cối và tên lửa vác vai M72 bắn phá dữ dội, đồng thời gọi máy bay T28 đến ném bom sát thương vào chốt Nậm thèng và ném bom na-pan vào đội hình chiến đấu của quân ta, nhưng rất may không gây thiệt hại đáng kể. Đất trời mịt mù khói lửa và cát bụi, cây cối tan tác, ngả nghiêng… Trước tình hình đó, tôi lệnh cho B41 diệt bằng được tên lính mang máy 1,5W để cắt đứt liên lạc của địch và cho đơn vị khép chặt gọng kìm, tiếp tục tấn công. Tiếng AK nổ giòn đanh thép, đạn cối 60 li, B40, B41 nổ trùm lên đội hình quân địch. Với bản lĩnh của lính trinh sát, Phạnh và Phước mưu trí, ngoan cường, nổ súng chính xác làm cho sức mạnh của mũi chiến đấu tăng lên rất nhiều. Bỗng một tiếng nổ vang như sét đánh, một quả cối bắn trúng vào vị trí của các anh. Phước hy sinh ngay tại chỗ, còn Phạnh bị mảnh cối cắt ngang cả hai đùi, máu chảy như xối. Phạnh không kịp băng bó, cứ thế bò rướn đến bên đồng đội, hô to: “Bắn mạnh lên các xiều ơi!”. Lúc này thấy địch đã bắt đầu nhốn nháo, tôi phát lệnh xung phong. Quân ta anh dũng xông lên, địch hốt hoảng tháo chạy, để lại nhiều xác chết trên cánh đồng Nặm Thèng.
Các Cựu chiến binh Quân tình nguyện Việt Nam – Thành phố Hà Nội làm lễ bái vọng hương hồn liệt sỹ Quân tình nguyện Việt Nam đã anh dũng chiến đấu hy sinh tại sân bay quân sự Salavan năm 1972 – Sân bay Salavan 2016
Sau khi làm chủ trận địa, đơn vị thu dọn chiến trường. Thương binh, tử sỹ được đưa về con suối cạn nơi đơn vị trú quân. Phạnh cũng được đưa về bên các đồng đội. Nhìn khuôn mặt tái mét vì mất máu quá nhiều cùng đôi chân gãy lìa của Phạnh, trái tim tôi thắt lại. Tôi giục y tá băng bó ngay cho anh, nhưng Phạnh xua tay. Đôi mắt sáng trên gương mặt người chiến sỹ có dáng vẻ thư sinh ấy bình thản nhìn tôi và đồng đội xung quanh, không hề lộ vẻ đau đớn. Bỗng Phạnh cất tiếng trong hơi thở yếu dần: “Địch đã rút chưa anh?”. “Chúng đã tháo chạy hết rồi!” – Tôi nghẹn ngào trả lời và biết không thể làm gì cho anh được nữa. Phạnh đưa mắt nhìn tất cả mọi người, nấc lên một tiếng rồi ra đi…
Thác nước Salavan – khu du lịch sinh thái ngày nay
Hoàng hôn xuống dần, màn đêm từ từ buông kín Nặm Thèng. Nơi đây chiến sỹ ta vừa trải qua một trận đánh với nhiều mất mát, hy sinh…
Lời nói cuối cùng của Phạnh vẫn vang mãi trong tôi. Day dứt thay, anh không kịp nhắn gửi một điều gì đó về Kì Trinh, Kì Anh quê hương. Anh chỉ nghĩ về cuộc chiến đấu trên mảnh đất này, ngay cả khi biết rằng mình không thể sống được nữa!
Ngày đất nước ca khúc khải hoàn, Xuân Phạnh và biết bao đồng đội không có mặt, thậm chí có người mãi mãi không trở về được Đất mẹ. Xương máu các anh đổ xuống làm nên màu xanh bất diệt cho tình đoàn kết hai nước Việt – Lào hôm nay.
Thượng tá Nguyễn Đức Tính