Chiến dịch mùa khô năm 1970-1971, sau khi giải phóng Cánh Đồng Chum – Sảm Thông. Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 được Mặt trận 31 giao nhiệm vụ đánh chiến tuyến phòng thủ Nam Tra, phía đông nam thủ phủ Long Chẹng của tướng phỉ Vàng Pao.
Tuyến phòng thủ Nam Tra gồm 3 cao điểm, độ cao trung bình 2100m so với mực nước biển. Địa hình phức tạp, hiểm trở ,dốc cao, vực sâu, đá tai mèo, khó khăn tiếp cận lực lượng và phương tiện chiến đấu. Tại đây, địch xây dựng hệ thống phòng thủ liên hoàn, có công sự, giao thông hào kiên cố. Với lực lượng 1 tiểu đoàn bộ binh khoảng 500 tên, một trận địa sơn pháo 4 khẩu, trạm quan sát hàng không, mặt đất. Các trận địa pháo từ Long Chẹng, máy bay các sân bay Viêng Chăn, Thái Lan sẵn sàng chi viện khi bị ta tiến công. Tuyến phòng thủ Nam Tra như cánh cửa “thép” của thủ phủ Long Chẹng, khống chế cả khu vực rộng lớn Sảm Thông, Cánh Đồng Chum – Xiêng Khuảng. Tuyến phòng thủ Nam Tra được ví là “Hành lang nhà trời”, tướng phỉ Vàng Pao đã từng tuyên bố: Nam Tra bất khả xâm phạm, cộng sản vào không có đường ra.
Sau một tuần chuẩn bị phương án chiến đấu trên sa bàn và trên thực địa, Ban chỉ huy Trung đoàn 165 ra quyết tâm chiến đấu:
Sử dụng lực lượng hai tiểu đoàn bộ binh với sự chi viện pháo binh mặt trận cũng như hỏa lực Sư đoàn, Trung đoàn. Một trung đội tinh nhuệ luồn sâu vào sở chỉ huy địch. Trong đánh ra, ngoài đánh vào, tiêu diệt toàn bộ lực lượng ở cao điểm 1 và 2 trước 4 giờ ngày 19 tháng 2 năm 1972. Một đại đội bộ binh kết hợp với hỏa lực trung đoàn khống chế, bao vây điểm 3, không cho địch ra ứng cứu hoặc chạy vào Long Chẹng.
Trung đội luồn sâu vào sở chỉ huy địch gồm 20 cán bộ, chiến sĩ do trung đội trưởng Trương Mạnh Quyền chỉ huy, có nhiệm vụ: một giờ sáng bất ngờ nổ súng tiêu diệt sở chỉ huy địch. Cùng lúc, lực lượng công binh dùng bộc phá ống, mìn định hướng mở cửa hàng rào kẽm gai. Hai tiểu đoàn bộ binh từ các hướng đồng loạt tấn công. Pháo binh bắn cấp tập chế áp điểm 3.
Công tác chuẩn bị cho trận đánh đã hoàn tất. 18h ngày 18 tháng 2 năm 1972, Trương Mạnh Quyền cầm đôi dép tông chiến lợi phẩm vào hầm tôi và nói: “Bút ơi! Nếu sống về được, nhờ mày đưa đôi dép cho mẹ tau đi nhé!”. Tôi cầm đôi dép bỏ vào ba lô. Hai chúng tôi cùng là sinh viên đại học, cùng lớp, cùng nhập ngũ và chơi thân với nhau. Hai đứa hút chung điếu thuốc lào rồi chia tay nhau. Quyền về trung đội chỉ huy anh em luồn sâu vào sở chỉ huy địch, tôi cùng đơn vị tiềm nhập áp sát hàng rào chờ thời gian nổ súng theo hiệp đồng tác chiến. Rừng Lào âm u, mây núi như một biển sương mù. Pháo địch bắn cầm canh như xé toang sự u ám, giá lạnh của rừng già Long Chẹng.
Còn 30 phút nữa mới đến giờ nổ súng. Tại sở chỉ huy địch, nơi trung đội Quyền luồn sâu, bộ đội ta và địch bắn nhau dữ dội. Trung đoàn trưởng Nguyễn Chuông nhận định: trung đội luồn sâu đã bị lộ, địch đang bao vây trong cứ điểm. Ông ra lệnh qua máy bộ đàm cho các hướng, các mũi tấn công theo hiệp đồng. Bộ đội ta đồng loạt tấn công. Địch phản kích chống trả quyết liệt. Pháo địch từ Long Chẹng bắn ra, máy bay C130, phản lực quần đảo, thả bom, bắn phá các khu vực quân ta tiếp cận. Sau gần 30 phút cơ động, tấn công, chúng tôi làm chủ được một phần sở chỉ huy địch. Nhưng trung đội luồn sâu của Trương Mạnh Quyền hy sinh gần hết. Thi thể Trương Mạnh Quyền bị bọn phỉ chặt ra làm ba. Những người lính chúng tôi đã từng chứng kiến bao sự hy sinh, chết chóc thê thảm, nhưng chưa bao giờ thấy sự dã man như thế này, có đồng đội đã ngất đi…Chính trị viên các đơn vị kêu gọi, động viên cán bộ chiến sĩ: bình tĩnh, mưu trí, anh dũng chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, trả thù cho đồng đội.
Khẩu đội trưởng DKZ Phan Tiến Giáo một mình vác nòng DKZ82 nặng 75 kg vượt đồi lên tận hàng rào để đồng đội bắn tung hỏa điểm, công sự địch. Tiểu đội trưởng cối 82 Đặng Văn Tùng cùng hai chiến sĩ Lê Tiến Nhật, Vũ Thuần Nho lấy đạn pháo cối 81 mm của địch bắn vào khu vực địch co cụm. Máy trưởng thông tin 2W Nguyễn Quang Anh với khẩu K54 bắn gục hai tên lính Vàng Pao ngay trước công sự. Tiểu đội phó 12ly7 Lê Trọng Khánh hạ nòng 12ly7 bắn thẳng vào các hỏa điểm địch. Xạ thủ Bùi Phan Hùng sau khi bắn 8 quả đạn B41, anh không còn đủ sức cơ động, đồng đội đến lau những giọt máu rỉ ra từ tai và mũi của anh.
Các điểm hỏa lực địch bị quân ta tiêu diệt, số sống sót co cụm lại góc đồi chống trả. Lực lượng bộ binh ta từ các hướng bao vây. Trong công sự, dưới giao thông hào, lính Vàng Pao gọi ra: “ Lục nhom tha! Lục nhom tha!”…Tôi hỏi chiến sĩ Tín người dân tộc Hmông có hiểu chúng nó nói gì không? Tín nói: tiếng dân tộc là con xin hàng! Bộ đội ta vừa bắn vừa hô to: “ Nhom bô tai! Nhom bô tai!”..(giơ tay lên! Giơ tay lên!). Gần 50 lính Vàng Pao bỏ súng, giơ tay đầu hàng.
Sau gần hai giờ chiến đấu ác liệt, trung đoàn đã làm chủ hoàn toàn tuyến phòng thủ của địch. Tiểu đoàn bộ binh địch bị tiêu diệt, ta bắt sống gần 100 tù binh, trong đó có tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng. Tối cùng ngày , chúng tôi dò sóng nghe đài BBC bình luận: “ Rạng sáng nay, con rồng xanh 312 đã phun lửa thiêu trụi tuyến phòng thủ Nam Tra của tướng phỉ Vàng Pao.”
Cuối tháng 2 năm 1972, trung đoàn nhận lệnh cấp trên bàn giao khu vực giải phóng cho bạn, khẩn trương cơ động về nước, tăng cường cho chiến dịch giải phóng và bảo vệ Quảng Trị. Để đảm bảo bí mật và tạo điều kiện cho đơn vị bạn hoàn thành nhiệm vụ, các phương tiện kỹ thuật để lại cho bạn, cử người hướng dẫn cách sử dụng, quy luật, phương pháp thông tin liên lạc theo mật khẩu, tần số của trung đoàn.
Công tác bàn giao cho bạn tiếp quản khu vực đã xong. Trung đoàn trưởng Nguyễn Chuông chỉ thị các đơn vị bí mật tổ chức hành quân về nước. Đã gần ba năm tham gia chiến đấu giúp bạn, đội ngũ cán bộ các cấp thông thuộc địa hình, am hiểu đặc điểm từng khu vực. Hành quân ra đến thị xã Xiêng Khuang đã đổ nát hoang tàn, bom đạn còn khét nồng…Chúng tôi gặp ba cô gái trong trang phục truyền thống dân tộc Lào, đeo gùi, tôi hỏi: “ Noọng pay kơ lơ ?” (em đi đâu?), một cô trả lời : “ Mơ hươn”( đi về nhà). Tôi hỏi tiếp: “Hụ khom Việt bò?( có biết tiếng Việt không?). Ba cô gái lắc đầu. Với vốn tiếng Lào ít ỏi, mấy anh lính trẻ nói với nhau có tính trêu chọc ba cô gái cho thỏa thích. Ba cô gái đỏ mặt chấn chỉnh: “Các anh bộ đội không được nói bậy!”. Hỏi, chúng tôi mới biết: ba cô gái “Lào” quê Anh Sơn, Nghệ An, được tổ chức bố trí sang cùng ăn, cùng ở, cùng làm, xây dựng các bản làng Lào đã được giải phóng. Tôi đến bắt tay nhận đồng hương, mọi người cười ồ, quên cả mỏi mệt.
Trên đường hành quân đơn vị vừa bổ xung lực lượng, trang bị vũ khí vừa huấn luyện nâng cao sức chiến đấu. Đầu tháng 5 năm 1972 chúng tôi về đến Đô Lương Nghệ An. Biết bộ đội ta đã ba năm sang chiến đấu giúp bạn, chính quyền, nhân dân, các nông, lâm trường trên địa bàn chở rau xanh, lợn gà đến tặng bộ đội. Đơn vị chưa kịp tổ chức liên hoan, chúng tôi nhận lệnh cấp trên hành quân cấp tốc vào Quảng Trị.
Một đêm tháng 6 năm 1972, đơn vị vượt sông Ba Lòng vào bảo vệ làng Như Lệ, Tích Tường, phía tây nam Thành cổ Quảng Trị. Tôi để túi phao bơi ở bờ nam sông, trở lại bờ Bắc đón số đồng đội chưa sang được. Một loạt pháo từ Cửa Việt bắn vào trúng túi phao bơi, trong đó có ba lô, đôi dép tông của Quyền gửi, kỷ vật thiêng liêng của người bạn ủy thác. Tôi đã không thực hiện được lời hứa!
Tháng 4 năm 1974, sau khi hoàn thành khóa tập huấn công tác tham mưu tại trường sỹ quan lục quân, tôi được bổ sung vào tiểu đoàn 4, trung đoàn 170, sư đoàn 341, quân đoàn 4. Cuối tháng 12 năm 1975, đơn vị làm công tác quân quản tại quận 3 Sài Gòn. Sau buổi giao ban, Đại tá Chính ủy sư đoàn Trần Nguyên Độ gọi tôi vào phòng. Hút điếu thuốc lào xong, ông hỏi tôi: Cậu có ý định xin ra quân , về trường học hết chương trình đại học? Tôi chưa kịp trả lời, ông khẳng định: Không được! Cán bộ tiểu đoàn ai cho ra quân.Ngày mai, bàn giao công việc cho Chính trị viên phó, nghỉ vài hôm, mua quà Sài Gòn cho gia đình. Sư đoàn cho cậu nghỉ phép một tháng thăm gia đình, hỏi vợ, sau vào công tác lâu dài. Tớ vừa nhận lương, cậu cầm một ít, mua thêm các thứ cần thiết để cưới vợ. Tôi từ chối nhưng ông cứ bỏ vào túi.
Tôi về phép, tìm đường sang xã Hưng Tây, Hưng Nguyên, Nghệ An để tìm gặp thăm mẹ và người thân của Trương Mạnh Quyền. Khi đến nơi, ngôi nhà tranh của gia đình Quyền, chủ mới đã ở. Gia chủ cho biết: sau khi nhận được tin Quyền hy sinh, Cụ lâm bệnh rồi từ trần. Người chị gái và hai con nhỏ đã theo về quê chồng miền Nam.
Đã gần 50 năm nay, tôi cứ day dứt món nợ lớn với đồng đội, đồng chí. Món nợ không bao giờ trả được. Hài cốt của Quyền và các đồng đội hy sinh trên chiến trường nước bạn hiện nay ở đâu? Đã được quy tập về nước, hay còn vùi sâu trong rừng già nước bạn ?
Đại tá Lê Anh Bút, Cựu chiến binh f312