Hà Nội, ngày 06-02-2016 (28/tháng Chạp, Ất Mùi)
Rạng sáng ngày 01/9/1972, trên cao nguyên Cánh Đồng Chum Xiêng Khoảng, sương mù còn giăng đặc trên những cánh rừng và những quả đồi thuộc khu vực phòng ngự của đại đội 2, tiểu đoàn 8, trung đoàn 866 (C2, D8, E866) bỗng tiếng súng B40, tiếng AK rộ lên xen lẫn tiếng M79, AR15 …, những tiếng nổ thưa dần và tắt lịm trong đêm đầy sương!
Đấy chính là khu vực đồi Năm Mỏm, lính ta còn gọi với tên khác là đồi Coong Le. Ai đó từng nói, ngày trước đại úy Coong Le đã chỉ huy một đơn vị quân đội Hoàng gia đóng quân tại nơi này. Đây là một dãy đồi bát úp có năm mỏm liên hoàn, mỏm Một cao nhất (1.324m) các mỏm khác thấp dần. Nằm ở trung tâm Cánh Đồng Chum, địa hình nơi đây tạo thành thế đứng chân khá vững cho các bên tham chiến. Nếu ai làm chủ được Năm Mỏm sẽ có lợi thế khống chế, uy hiếp các địa hình phụ cận và liên kết với Phu Keng, Phu Tâng tạo thành một thế trận phòng ngự liên hoàn vững chắc trên cao nguyên Cánh Đồng Chum. Do vậy việc giành giật tranh chấp giữa các bên thường diễn ra rất quyết liệt.
Như có linh cảm, tổ phục kích của C2 đã chạm địch. Từ trưa ngày 30/8 nghe phong phanh trên thông báo có 2 GM địch (2 trung đoàn) bị ta đánh ở hướng Phu Keng rất có thể chúng sẽ đánh chiếm Năm Mỏm để hỗ trợ đại quân tiến về hướng Nam. C2 được lệnh của tiểu đoàn đã cử b5 do chính trị viên phó Lương Minh Tuận chỉ huy đi bám đánh địch từ chiều hôm trước giờ vẫn chưa có tin gì. Đại đội cũng tăng cường một tiểu đội chốt thêm ở mỏm Hai, dự tính nếu địch tới thì cả mỏm Một và mỏm Hai hỗ trợ nhau chặn địch.
Sau khi nghe tiếng súng, đại đội trưởng Nguyễn Cao Đại nhận định địch đã va vào chốt của ta, anh lệnh cho hai trung đội còn lại (b4 và b6) xuất kích…
Mấy ngày vừa rồi tin tức toàn mặt trận nóng bỏng, ngay tại khu vực C2 phòng ngự, việc tranh chấp giữa ta và địch cũng diễn ra rất quyết liệt. Trên chốt C2 luân phiên chốt giữ chỉ có một tiểu đội tăng cường đã lên tục đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch lên mỏm Một. Tuy vậy, một lần chúng cũng đã đánh bật lực lượng phòng ngự của ta ra khỏi chốt. Nhờ sự mưu trí, dũng cảm và sự quyết đoán đến táo bạo của đại trưởng Đại C2 đã phản kích chiếm lại ngay sau đó mà không hề có thương vong nào.
Hành tiến về hướng có tiếng súng nổ, chúng tôi gặp tổ phục kích ở mỏm Hai đang vội vã quay về hướng đơn vị, tiểu đội trưởng báo cáo địch định luồn qua chốt mỏm Hai nhưng tổ chốt đã phát hiện và kịp thời nổ súng chặn lại, chúng cũng đã bắn trả quyết liệt. Sau một hồi giao tranh hai bên cùng rút!
Lệnh của đại trưởng: tất cả tiến về phía trước. Trời vẫn đầy sương, toàn bộ khu rừng đồi như chưa tỉnh giấc. Hơn 10 phút sau, cả đơn vị đã tới sườn mỏm Hai, tới đúng vị trí khu công sự dã chiến của tổ phục kích vừa rút. Từ đây quan sát xuống dưới chân đồi phía bên kia con suối nhỏ (một nhánh của sông Nậm Ngừn), lũ lượt những bóng lính mờ ảo lẫn trong sương, đúng là quân địch đang rồng rắn vội vã trườn về phía cánh rừng bản Thoong, chúng đông như một bầy kiến …
Đội hình C2 vẫn tiến nhanh về phía địch, khoảng cách được thu hẹp dần, hai bên chỉ cách nhau khoảng trên dưới 200m, nhưng do sương mù quá đậm đặc, lính lẩn trong sương, sương chùm lên những người lính của cả hai phía lúc ẩn, lúc hiện. Mọi thứ đều mơ hồ không rõ ràng.
Trong không gian tĩnh lặng của núi rừng mù sương, những bước chân vội vã, gấp gáp tiến về phía địch. Đại trưởng ra lệnh: “tiến lên – chiếm lĩnh điểm cao”. Tốp đi đầu với đại trưởng có 5, 6 người cùng dàn hàng ngang lao về phía trước nơi có những mô đất: Gồm, Nguyễn Xuân Giao, Nguyễn Văn Tiệm, Chuông, Nga, Hiền và tôi (Trần Phong) . Đội hình phía sau chia làm hai, mũi theo sát chúng tôi có khoảng 10 tay súng, mũi còn lại tiến lên đỉnh mỏm Hai chặn phía sau đội hình địch. Quân địch đã rất gần, đại đội trưởng tay phải cầm súng ngắn K54, tay trái anh vung lên ra lệnh cho mọi người nổ súng và lao nhanh tới chiếm lĩnh các mô đất phía trước. Tôi cùng các tay súng AK nhanh chóng vừa tiến vừa ngắm và siết cò, xạ thủ B40, RPK cũng vừa kịp lấy thế bắn, khẩu cối 60 của Tuất cũng nhanh chóng gá ngay bàn đế trong chốt lát và tất cả xối xả bắn vào đội hình địch. Những loạt đạn đầu tiên đã có nhiều xác địch ngã gục, lại thấy những tên tới xốc nách kéo đi trong vội vã.
Chúng tôi vẫn vừa tiến vừa bắn về phía địch. Bị bất ngờ sau những loạt đạn của ta bắn tới tấp vào đội hình địch, bọn chúng cũng phản ứng rất nhanh. Cậy đông quân chúng dàn đội hình kê súng lên bờ đất bên kia con suối cạn bắn trả quyết liệt lên phía trên đồi nơi chúng tôi đang tiến xuống. Đây là điều bất lợi của ta, nhưng bù lại sương mù chưa tan, từ dưới chân đồi nhìn lên hạn chế hơn so với trên nhìn xuống.
Quanh tôi, những tiếng súng của hai phía nổ hỗn loạn. Tiếng rít của đạn bắn thẳng, tiếng nổ đanh M79 của địch và khói súng như quyện vào những người lính. Bỗng một tiếng nổ chát chúa chính giữa đội hình của tốp đi đầu khói bụi mù mịt, khét lẹt. Theo phản xạ, chúng tôi nằm rạp xuống đám cỏ gianh, ngay sau đó là tiếng kêu của đại trưởng “…Tôi bị thương rồi!”, nhoài người tôi bò ngay tới bên anh, máu tươi bên đùi phải anh đang tuôn ra xối xả ướt đẫm cả ống quần. Tiểu đội trưởng Tiệm nằm bất tỉnh ngay cạnh bên, máu từ bụng cũng đang trào ra, Giao đang vội băng cho Tiệm, tôi lấy tay ghì chặt vết thương cho anh Đại và gục Giao nhanh lại ? Lúc này anh như rơi vào cơn mê, không phân định được mình bị thương ở đâu, đùi phải bị anh lại bảo bên trái, tôi dùng dao găm cắt ngang ống quần chỗ đùi bị thương, máu vẫn đang chảy ra cả ở bụng dưới, tôi tháo thắt lưng cùng Giao bó thít trên đùi theo phương pháp ga zô như bài học quân y đã hướng dẫn trước khi đi chiến trường. Giao vội xé bông băng cá nhân băng vết thương cho anh, nhưng máu vẫn chảy. Đạn địch vẫn đan chéo trên đầu, cảm gác như tính mạng của mình và đồng đội trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Bên cạnh Tiệm cũng đang thở dốc.
Trong tình cảnh này phải đưa anh Đại vào nơi an toàn để băng lại vết thương, tôi và Giao hội ý chớp nhoáng: tôi nằm sấp úp mặt xuống đám cỏ Gianh sát người anh, Giao lật người anh lên lưng tôi. Anh dân biểnTiền Hải khá to và nặng nên tôi cõng còn Giao bê mông anh cùng lom lưng dưới làn đạn của địch mà chạy, máu vẫn chảy làm ấm lạnh cả lưng tôi. Chúng tôi chạy chừng vài chục bước nghe anh thều thào: “có lẽ… Tôi… không… qua…khỏi, các cậu…ở…lại…cố chiến đấu…gữi chốt…!” Rồi đầu anh ngẹo sang một bên, hai tay trượt qua vai tôi và buông thõng. Cảm giác anh đi thật rồi, nhưng tôi và Giao vẫn cố chạy thêm đoạn nữa để vào tới nơi tạm gọi là an toàn, ở đó có một khoảng đất trũng xung quanh cỏ cây lúp súp ngang lưng người, có hầm cá nhân của tổ chốt và có mấy cây thông già. Chúng tôi đặt anh nằm xuống, hai đứa thẫn thờ như người không hồn. Anh đã đi thật rồi! Mặt anh trắng dại, đôi mắt anh vẫn mở như muốn nói điều gì với những người lính đã theo sát mình trong suốt các trận đánh dày đặc trên khu vực phòng ngự trọng điểm này.
Ánh mắt ấy như chưa thể yên lòng bỏ lại đồng đội cấp dưới của mình khi trận chiến chưa đến hồi kết. Tôi không đành lòng nhưng phải làm cái việc mà chưa bao giờ giám nghĩ, vuốt cho đôi mắt anh khép lại cả một đời người, khép lại những đau thương bi hùng để anh được yên nghỉ. Tôi lấy từ túi áo chiếc khăn mùi xoa của mình phủ lên khuôn mặt anh. Hai chúng tôi ứa nước mắt, môi mím chặt, mắt nhìn người chỉ huy người đồng đội, người anh của chúng tôi đã đi!
Ngoài kia súng vẫn nổ, tiếng đề pa cối 60, tiếng AK của anh em C2 vẫn đang bắn về phía địch, nhưng chúng bắn lại mạnh hơn, một chiến sỹ bị thương đang tập tễnh chạy vào chỗ chúng tôi, anh bị đạn địch xiên vào gối may mà chưa chạm xương. Mấy anh em còn lại cũng đã kịp đưa Tiệm vào nơi an toàn nhưng anh gần như đã tắt thở. Đại đội phó Đam (chúng tôi thường gọi APơ Đam) vừa từ đâu chạy tới hỏi xem tình hình vết thương của đại đội trưởng thế nào? Chiu, chiu… tiếng đạn rít qua, đại đội phó bất thần nhao người về phía trước nhưng không ngã, một viên đạn tiểu liên cực nhanh của địch bắn trúng mông anh, rất may viên đạn đã găm đúng nòng súng K54 của đại phó, nòng súng toác ra để lộ viên đạn K54 vàng ươm đã lên nòng, thật hú vía (!)
Tôi cùng Giao xách AK nhanh chóng trở ra hướng vừa cõng anh Đại vào, hai đứa chọn cây thông già to nhất cỡ hai người ôm, từ đây chúng tôi nhìn xuống chân đồi tương đối rõ, địch vẫn lũ lượt hành quân vội vã vào phía bìa rừng, tiếng súng của các chiến sỹ C2 hình như thưa dần. Tôi và Giao ôm súng áp sát người vào thân cây thông già quan sát, một tốp khoảng hơn 20 tên địch đang băng về phía chúng tôi. Không ai bảo ai, ngay lập tức chúng tôi cùng nổ súng, bóng địch đổ xuống, lại thấy mấy thằng chạy tới xốc dìu quay lại, nhưng vẫn có mấy thằng xông lên. Được thể chúng tôi điểm xạ thêm vài loạt, trên đồi mấy anh em cũng đồng loạt bắn cấp tập vào đội hình địch, lại có những bóng địch giục ngã. Không có tên nào giám xông lên, chúng lại dàn hàng ngang bắn xối xả về phía chúng tôi, lá thông và những nhành thông rơi tả tơi trên đầu. Có tiếng rít mát lạnh ngay sau gáy cùng một mảng vỏ thông vỡ toác bay ngang đầu tôi… Giao kêu lên: “Thôi đừng bắn nữa…!”
Phía trên sườn đồi mấy chiến sỹ vẫn đang bắn về phía địch, lúc này chúng đã tản ra và vội vã đi về phía cửa rừng. Hai đứa dừng bắn ép sát mình sau cây thông già quan sát, thì ra trước đó lính ta tạm ngừng bắn, tưởng có thể tràn lên tiêu diệt được các chiến sỹ C2 chúng đã liều lĩnh xông lên vào đúng lúc tôi và Giao ra kịp tiếp sức cùng anh em đang trên sườn mỏm Hai bắn trả. Biết không thể đè bẹp được đối phương chúng đành dìu số thương vong quay lại tiếp tục lui quân về hướng bìa rừng.
Cùng lúc, nỗi lo ập tới trong chốc lát. Nếu chúng hò hét cả đội quân đông như kiến cỏ xông lên chắc chúng tôi buộc phải sống mái với chúng. Giờ này đại đội trưởng cùng 8 chiến sỹ đã hy sinh, trên 10 người bị thương đang nằm rải rác ở sườn đồi và dưới gốc mấy cây thông già, đại đội phó Đam lại cơ động về sau gọi chi viện của tiểu đoàn. Trước trận đánh, cả đơn vị có gần 40 tay súng, giờ này chỉ còn hơn mười người trụ lại. Mọi người nhanh chóng tìm cho mình vị trí tiện lợi tránh được đạn địch bắn thẳng và quan sát sẵn sàng đáp trả nếu chúng lại liều lĩnh xông lên. Tiếng súng của cả hai bên thưa dần và hầu như cả hai cảm thấy mệt mỏi, rệu rã. Địch vẫn vội vã đi về phía bìa rừng, hẳn chúng muốn sớm lọt vào rừng xanh hơn là giao chiến với đội quân ít ỏi gan góc của C2.
Trên trời, máy bay OV-10 lượn đảo liên hồi, T28 xà thấp và kéo theo những tiếng rít rợn người song có lẽ chúng không phân biệt đâu là gianh giới hai bên nên chẳng biết phải xả đạn, ném bom vào chỗ nào, quần đảo một hồi dài mà không biết làm gì rồi cũng đánh bài chuồn.
Sương mù đã thưa dần. Trận địa im lìm như trước đó chưa hề có chuyện gì xảy ra, chỉ còn lại mùi khét lẹt của súng đạn, mùi tanh của máu cùng với những cảm xúc trống vắng, bần thần khó tả. Bầu trời quang dần, sương chỉ còn lảng vảng, vương vãi lơ thơ như những cụm khói của súng đạn vừa nổ. Một khung cảnh hoang tàn và lạnh lẽo đến nao lòng. Trời đã quá trưa, chúng tôi tập trung băng bó cho thương binh. Khi băng cho một chiến sỹ, chúng tôi ái ngại và thương anh ấy quá. Mặt anh tái dại trắng bệch vì mất nhiều máu, viên đạn địch đã găm trúng bộ hạ, xung quanh bẹn anh máu đã khô. Nhưng không hiểu sao cả hai hòn cà vẫn nguyên vẹn treo lủng lẳng trên những sợi dây chằng mỏng manh dính máu, tôi và Giao đành gọi y tá Đồng tới giúp.
Địch đã rút gần hết vào cánh rừng phía trước, thỉnh thoảng vẫn có vài tốp nhỏ lẻ lặng lẽ vòng ra xa rồi chui mépvào rừng. Tôi và Giao trở ra kiểm tra khu vực xung quanh, bên bãi cỏ gianh gần đó xác một tên địch quần áo rằn ri thiếu mất một bên đùi, máu đã thâm đen chỗ đùi bị cụt, chiếc đùi văng ra cách đó ba bốn mét bị cháy đen thui. Ngay cạch còn một xác địch chết nằm sấp trên vũng máu khô. Đây chính là kết quả trận đánh của tổ phục kích lúc rạng sáng, sau này anh em tổ phục kích kể lại: “khi phát hiện có tốp người lạ đi vào chốt, lính ta hỏi mật khẩu, chúng bỏ chạy và xạ thủ B40 cùng cả tổ đã kịp thời nổ súng”. Tôi và Giao lật xác hai tên địch kiểm tra rồi kéo 2 khẩu AR15 và 2 chiếc ba lô của địch về chỗ tập trung thương binh, liệt sỹ của ta. (sau này trên thông báo: theo đài KT của ta, địch chạy qua đồi Năm Mỏn chết và mất tích 35 tên không kể số bị thương). Nếu như những trận đánh trước đó, cánh lính chúng tôi sẽ tranh nhau lục lọi tìm kiếm chiến lợi phẩm, nhưng giờ thì chẳng thiết thứ gì, anh em đồng đội người còn, người mất ngổn ngang những đau thương mất mát, thật sự C2 đã tổn thất nhiều quá.
Người cảnh giới, người chăm sóc thương binh. Quá chiều bộ phận tiếp viện của tiểu đoàn vẫn chưa đến hỗ trợ đưa liệt sỹ về tuyến sau, chúng tôi đành cử một tổ ở lại bảo vệ liệt sỹ một số dừu thương binh về nơi dấu quân…
Phía tây, nắng quái chiều đang hắt lên một thứ ánh sáng vàng kè, những đụn mây có hình thù kỳ quái biến đổi liên tục. Xa xa hướng Phu Keng mấy chiếc trực thăng như những con chuồn chuồn sắt đen xì chao đảo vội vã, gấp gáp xen lẫn tiếng nổ đì đùng to nhỏ vọng lại…Tôi khoác 2 khẩu AR 15, Giao cũng mang thêm 2 AK cùng anh em thẫn thờ, lầm lũi lần dìu thương binh về nơi dấu quân của đại đội, cơ thể rã rời mệt mỏi như có một khoảng trống sâu hun hút chẳng thể lấp đầy. Anh nuôi mang tới những phần cơm nắm, từ sáng và cả trưa nay bụng đã có tí gì đâu, nước cũng chưa kịp uống, môi khô rát, miệng đắng ngắt, mắt cay muốn khóc mà nước mắt lại chảy vào trong. Đau cái đau của những người lính sau trận chiến anh em, đồng đội ra đi nhiều quá (9 hy sinh, 13 người bị thương phải về tuyến sau điều trị và rồi cũng có người lại ra đi tiếp vì vết thương quá nặng)… Chính trị viên Thân động viên: “Các đ/c phải cố ăn đi mà lấy sức để còn tiếp tục làm nhiệm vụ và làm thay cho anh em đã mất chứ!”. Chẳng thể nuốt nổi, nhấp ngụm nước cháy cơm, mấy đứa chúng tôi rời căn hầm dã chiến đi xuống bờ sông Nậm Ngừn cách đó hơn chục mét tắm rửa.
Cứ để nguyên quần áo, tôi từ từ nhúng người xuốngdòng Nậm Ngừn, một vệt màu đỏ nâu loang trên mặt nước trôi xuôi theo dòng sông. Máu của đại đội trưởng thấm vào cả hai lần áo, chiếc áo lót cộc tay màu trắng tôi mang từ miền Bắc vào chiến trường đã thẫm máu, không thể nào gặt được tôi đã thả trôi theo dòng nước. Máu của anh Đại, máu của bao đồng đội Quân tình nguyện đã hòa vào sông suối của người Lào như thế !
Tiếc thương bao đồng đội đã không còn, các anh đã ngã xuống cho Đồi Năm Mỏm trụ vững. Trận chiến như một đòn đánh bồi, đánh chặn đại quân địch để phối hợp với các đơn vị bạn toàn tuyến chặn đầu khóa đuôi tiến tới tiêu diệt và làm tan dã cả hai trung đoàn thiện chiến GM21 và GM26 lính Mẹo của tướng phỉ Vàng Pao. Chiến dịch phòng ngự mùa mưa năm ấy cả mặt trận đã giành toàn thắng. Cán bộ chiến sỹ C2, D8 cũng đã hoàn thành suất xắc nhiệm vụ và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công Hạng Hai.
Chiến tranh đã lùi xa ngót nửa thế kỷ kể từ sau trận đánh đó. Hình ảnh đại đội trưởng Đại, các đồng đội C2 của tôi, gốc cây thông già ở sườn mỏm Hai và vệt máu loang trên dòng Nậm Ngừn chiều đó còn nguyên trong tâm trí tôi. Cứ mỗi khi mùa gió về tôi và Giao cũng như những người may mắn còn lại sau chiến tranh lòng không nguôi khắc khoaỉ gọi tên các anh – Đồng đội ơi !?
Để giành lấy độc tự do, để hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả “Giúp bạn là tự giúp mình” hàng vạn người con của đất Việt đã ngã xuống qua các cuộc chiến, một số vẫn còn nằm rải rác đâu đó trên những cánh rừng, đỉnh núi, bờ sông, khe suối của khắp đất nước Triệu Voi. Hơn một vạn liệt sỹ hy sinh tại mặt trận Cánh Đồng Chum Xiêng Khoảng đã được đưa về đất mẹ Việt Nam, quá nửa tên tuổi các anh vẫn mờ mịt. Mộ đấy, hài cốt các anh đấy! Mà tiếc thương thay trên những tấm bia chỉ một dòng vô cảm: “Liệt sỹ chưa biết tên”. Những ngày cuối tháng 12/2015 một đồng đội của C2 đã có tin “tìm thấy tên anh” theo công nghệ ADN, anh là Phan Văn Quang, quê Bảo Thắng Lào Cai, anh là tiểu đội trưởng thuộc b5, C2, D8, E866 quân Tình nguyện Việt Nam, là một trong hơn 30 tay súng đã dũng cảm, ngoan cường đọ súng với 2 GM địch có số quân đông gấp cả trăm lần và đã anh dũng hy sinh cùng 8 cán bộ chiến sỹ trong trận chiến bi tráng ngày 01/09/1972 trên đồi Năm Mỏm.
Từ trong sâu thẳm, tôi hằng cầu mong một ngày không xa, anh Nguyễn Cao Đại, anh Tiệm, anh Cận, anhTrung, anh Bình, anh Ngọ, anh Luyến, anh Ơn của C2 và hàng ngàn liệt sỹ của chúng ta sẽ sớm được trở về quê hươngvới đầy đủ tên tuổi mà cha mẹ đã đặt cho!
Hà Nội, đêm cuối năm Ất Mùi tôi viết lại câu chuyện này thay những nén nhang thắp cho các liệt sỹ. Vào thời khắc đặc biệt này, không ai không nghĩ và tưởng nhớ đến người thân của mình đã về cõi vĩnh hằng, những người lính qua cuộc chiến còn nghĩ về đồng đội của mình – về các liệt sỹ như những người ruột thịt. Mong sao hương khói bay tới tận trời xanh, tàn nhang thấm sâu vào lòng đất để đến đượcvới các liệt sỹ. Chốn trần gian, mọi người vẫn gọi tên các anh, NHỮNG CON NGƯỜI BẤT TỬ!
Trần Phong, Nguyễn Xuân Giao C2, D8, E866 Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào